Tôi cho bà lên xe đi cùng mình, và chúng tôi đến thẳng đồn cảnh sát. Trong lúc đó, bà cứ nói không ngừng.
‘Nếu như hàng xóm có nói gì ác khẩu về tôi, mà nếu họ đúng, thì chắc chắn cũng là do anh Pontifex. Anh ấy chưa hề chịu nghe tôi một lời. Ôi, chừng đó là đủ để tôi thấy sợ rồi. Rồi tôi nghĩ có lẽ cô Rose của tôi sẽ dễ gần với anh ấy hơn, nên tôi để cô ấy đến dọn dẹp lau chùi mỗi khi tôi bận, và cũng cho cô ấy mang một cái tạp dề mới sạch sẽ, nhưng anh ấy chẳng hề để ý đến cô hệt như với tôi vậy, mà cô ấy chẳng muốn được tuyên dương hay gì cả, cô cũng chẳng lấy đồng nào từ anh, dù anh có cho đi nữa, nhưng dường như anh ấy chẳng biết gì hết. Tôi chẳng thể nghĩ được chàng trai trẻ này rồi sẽ ra sao. Tôi cầu cho mình bị dao đâm kiếm chém giòi bọ rúc rỉa cho rồi, nếu như vậy vẫn chưa đủ để cho mụ đàn bà này đứng vững trước mặt Chúa và đánh động cái phần ngốc nghếch của mình mà nhìn cho rõ những gì đang diễn ra, mà ông xem có được không khi một cô gái thật thà phải về nhà mỗi đêm với chỉ vài xu và phải trả ba hào sáu xu để thuê trọ mỗi tuần, và chẳng có nổi một cái giá sách hay tủ trong nhà, chỉ có bức tường trống trơn với cái cửa sổ mà thôi.’
Bà ta tiếp tục, ‘anh Pontifex không xấu, trong tâm anh rất tốt. Anh chẳng bao giờ nói gì khó nghe. Và rồi tôi còn thấy đôi mắt anh ấy thật đáng yêu, nhưng khi nói điều này với rose của tôi, cô ấy bảo tôi là mụ già ngốc và nói chắc tôi bị say nắng mất rồi. Còn Pryer, anh ta đúng là không thể chịu nổi. Ôi thôi anh ta đó! Anh ta thích làm tổn thương cảm xúc của phụ nữ, và cứ day day mặt người khác, anh ta thích tâng bốc họ lên rồi đạp họ xuống. Một quý ông phải là người xoa dịu phụ nữ, nhưng anh ta lại thích bứt từng nắm tóc người ta ra. Sao nào, anh ta nói thẳng vào mặt tôi rằng tôi là một bà mụ đang già đi, già thật ư! Chẳng có bà nào ở London này biết tôi bao nhiêu tuổi, ngoại trừ bà Davis ở phố Old Kent, và nếu không tính những gân máu nơi chân, tôi vẫn còn trẻ hơn bao giờ hết. Già thật ư! Một cây đàn cũ vẫn chơi được những khúc nhạc hay. Tôi ghét, tôi ghét những lời bóng gió bẩn thỉu của anh ta.’
Cho dù tôi có muốn cũng chẳng thể ngăn bà ta lại được. Bà ta còn nói nhiều hơn những gì tôi viết ở trên nữa. Tôi phải lược bớt đi bởi chẳng thể nhớ hết cho nổi, nhưng tôi không thể không viết ra cho các bạn những lời này.
Khi đến sở cảnh sát, chúng tôi thấy Towneley và Ernest đang ở đó rồi. Nó bị kết tội hành hung, nhưng được giảm nhẹ bởi không dùng vũ lực quá nghiêm trọng. Tuy thế, như vậy vẫn đủ thảm thê rồi, và chúng ta đều thấy rõ rằng anh bạn trẻ này đã phải trả một giá quá đắt cho sự non nớt của mình. Chúng tôi cố để bảo lãnh Ernest ra trong đêm, nhưng viên thanh tra không chấp nhận, nên buộc lòng phải để nó ở lại trong khám.
Sau đó, Towneley về lại nhà bà Jubb để xem thử có thể gặp được cô Maitland hòng thu xếp chuyện này hay không. Cô không có nhà, nên anh lần tìm đến Camberwell, nơi nhà cha cô. Cha cô rất giận dữ và chẳng thèm nghe bất kỳ lời nào của anh. Ông là một người Biệt giáo, và sẵn sàng tạo nên một vụ tai tiếng cho giới giáo sỹ anh giáo, bởi thế Towneley đành phải trở về tay trắng.
Sáng hôm sau, xem Ernest như một kẻ đang chết đuối cần được vớt lên bằng mọi cách có thể bất chấp hậu quả thế nào, nên Towneley tìm đến tôi, và chúng tôi giao phó việc này cho một trong những luật sư giỏi nhất thời đó. Tôi vô cùng vừa lòng với Towneley, và nghĩ rằng nên nói với anh điều mà tôi chưa từng cho ai biết. Ý tôi là nói ra chuyện Ernest sẽ được nhận số tiền thừa kế từ cô của nó trong vài năm nữa, và bởi thế chẳng mấy chốc sẽ trở nên giàu có.
Từ đầu đến giờ, Towneley vẫn giúp hết sức có thể, nhưng tôi biết, khi được hay những điều này, anh sẽ xem Ernest như một người đồng hàng với mình, và như thế sẽ gắng sức nhiều hơn nữa. Còn về phần Ernest, nó biết ơn đến nỗi không nói hết thành lời. Tôi đã từng nghe nó nói rằng, nó có thể nhớ lại nhiều chuyện, trong số đó có những chuyện rất hạnh phúc, nhưng riêng cái đêm trong khám này rõ rằng là chuyện đau đớn nhất nó từng trải qua, và nhờ sự tử tế và ân cần của Towneley nên nó mới trụ nổi.
Nhưng dù gì đi nữa, cả tôi và Towneley cũng chẳng thể giúp gì được ngoài việc động viên tinh thần nó. Luật sư báo cho chúng tôi biết rằng phán quan sẽ xử Ernest là một người rất nghiêm khắc trong những vụ như thế này, và rõ ràng việc nó là một giáo sỹ sẽ gây khó khăn nhiều cho nó. ‘xin được tại ngoại,’ ông ta nói, ‘và không bao biện gì nữa. Chúng ta sẽ nhờ đến mục sư quản nhiệm của anh Pontifex và thêm hai ngài nữa để làm chứng về tính tốt trước đây của anh ấy. Vậy là đủ. Rồi chúng ta sẽ gởi lời xin lỗi sâu sắc và cầu xin phán quan giải quyết qua loa vụ này thay vì đưa nó ra tòa án chính thức. Nếu có thể làm được như vậy, thì tin tôi đi, đó là chuyện tốt nhất mà anh bạn trẻ này có thể mong đợi.’
Chương 62
Lời khuyên này không những rõ ràng hợp lý, mà còn giúp Ernest tiết kiệm được thời gian và thoát khỏi tình trạng phải thấp thỏm lo âu, nên chúng tôi tiến hành ngay chẳng chút chần chừ. Vụ này được xử vào lúc mười một giờ, nhưng chúng tôi xin dời đến ba giờ chiều, để Ernest có thời gian sắp xếp trình bày mọi việc cho thỏa đáng, và cũng nhờ tác động của luật sư mà tôi được phép giúp nó trong việc này.
Rồi lộ ra chuyện về Pryer và cái Đại học Bệnh học Phần hồn. Ernest khó khăn khi thú nhận việc này hơn cả lúc nó kể về chuyện với cô Maitland, nhưng nó cũng đã cho chúng tôi biết hết, và cuối cùng chúng tôi hiểu được rằng nó đã giao cho Pryer đến tận đồng xu cuối cùng trong trong tài sản của nó mà chẳng có chút cam kết nào ngoại trừ một lời nói gần như vô giá trị của anh ta. Dù vẫn có chiều hướng tin rằng Pryer có thể xấu xa hay hèn hạ và tin rằng những việc nó đang làm thật ngu ngốc, nhưng Ernest vẫn lấy làm chắc rằng dù gì đi nữa nó cũng sẽ lấy lại phần lớn số tiền này ngay khi Pryer có thời gian để đem chúng đi bán lại. Towneley và tôi lại suy nghĩ khác, nhưng cả hai chúng tôi đều không nói ra.
Chờ đợi suốt buổi sáng trong một nơi lạ lẫm và nặng nề như thế này thật là thảm hại. Tôi nghĩ về tác giả Thánh vịnh đã kêu lên với vẻ đôi phần mỉa mai, ‘một ngày trong ngai tòa Người, còn hơn ngàn ngày nơi khác,’ rồi nghĩ rằng hẳn tôi cũng sẽ thốt lên cái cảm giác gần như thế về sân Tòa này, nơi tôi và Towneley buộc phải tham dự. Cuối cùng, đến độ ba giờ, vụ tố tụng được triệu tập, và chúng tôi quây tròn nơi phần tòa dành cho dân chúng, còn Ernest bị đặt ngồi nơi ghế bị cáo. Ngay khi trấn tĩnh đủ, nó liền nhận ra ông phán quan chính là ông già mà nó đã chuyện trò trên sân ga ngay hôm nó rời Roughborough, và cũng đau đớn nhận thấy, hoặc nghĩ là đã nhận thấy, rằng ông ấy cũng đã nhận ra nó.
Ông Ottery, luật sư của chúng tôi, làm đúng những gì đã nói trước. Ông chỉ gọi vị mục sư quản nhiệm của Ernest, Towneley, và tôi, rồi phó mặc mọi chuyện cho lòng nhân từ của phán quan. Khi luật sư đã trình bày xong, phán quan ra phán quyết như sau:
‘Ernest Pontifex, anh là một trong những vụ đau lòng nhất mà tôi từng xử. Anh đã nhận được rất nhiều từ cha mẹ và nền giáo dục. Anh đã có được tấm gương là hai bậc cha mẹ thật hoàn hảo, và từ lúc anh còn nhỏ, họ đã dạy cho anh biết những sự xấu xa của hành động xâm phạm mà anh vừa mới thừa nhận với tôi đây. Anh đã được gởi đến một trong những trường học tốt nhất anh quốc. Mà dường như một môi trường lành mạnh như Roughborough không thể gây cho anh những tác động xấu xa được, và có lẽ, mà theo tôi là chắc chắn, anh đã được khắc cốt ghi tâm rằng bất kỳ xâm phạm nào đối với sự trong trắng tuyệt đối đều là xấu xa cho đến tận lúc anh lập gia đình.
Ở Cambridge, anh cũng đã được bảo vệ khỏi những nhơ uế nhờ mọi biện pháp mà các bậc thẩm quyền đầy đạo đức và cẩn trọng có thể nghĩ ra, và ngay cả khi những biện pháp để giữ mình cho anh có bớt đi, thì cha mẹ của anh cũng đã bận tâm giám sát vấn đề tiền bạc của anh sao cho anh đừng ném tiền vào những thứ đồi trụy. Lúc đêm về, các giám thị canh chừng mọi lối đi và dõi theo từng bước chân anh nếu như anh có ý định đến những hóc hẻm, chốn sào huyệt có thể dung dưỡng thói xấu. Hằng ngày, những người phụ nữ được cho phép vào trong khuôn viên trường phần lớn đều là những người đã già và không xinh đẹp. Thật khó để có thể làm gì tốt hơn thế cho một chàng trai trẻ. Bốn hay năm tháng gần đây, anh đã là một giáo sỹ, và nếu còn có một ý nghĩ ô uế nào sót lại trong tâm trí anh, thì đáng ra phép thánh đã phải tẩy nó đi rồi. Dù vậy, không những tâm trí anh vẫn mang lấy sự uế tạp như thể những biện pháp ngăn chặn tôi vừa nói trên đều vô hiệu, mà nó còn dẫn đưa đến một kết cục tệ hại là anh thậm chí chẳng có được nhận thức bình thường để phân biệt giữa một thiếu nữ đoan chính với một cô gái điếm.
Nếu tôi phải thể hiện quan điểm nghiêm khắc phù hợp với cương vị hiện thời của mình, thì tôi đành buộc lòng đưa anh ra tòa án chính thức, nhưng xem xét đây là lần đầu tiên anh phạm tội, nên tôi sẽ nương nhẹ cho anh và tuyên án anh bị tống giam kèm lao động khổ sai trong vòng sáu tháng.’