Vào buổi tối, chúng tôi ngồi trong phòng khách, đám trẻ nhà Theobald hát thay vì đọc một vài thánh ca tặng riêng cho tôi, và tôi đã được nghe thấy giọng chúng tốt đến thế nào. Ernest hát đầu tiên, và nó chọn một bài về cây hoàng hôn. Tôi không phải là nhà thực vật học, và chẳng biết cây hoàng hôn là loại cây gì, nhưng bài hát bắt đầu như thế này, ‘Đến đây, đến, đến đây, đến với cây hoàng hôn bởi ngày đã hết, đã trôi qua.’ Giai điệu thật dễ thương, và Ernest say sưa với chúng, bởi nó có hứng thú đặc biệt với âm nhạc và giọng trẻ con của nó nghe thật ngọt ngào.
Tuy nhiên, nó rất chậm trong việc phát âm cho chuẩn từ ‘đ’, do vậy thay vì nói ‘đến’, nó nói thành ‘tến, tến, tến.’
Từ chiếc ghế bành trước lò sưởi, với hai tay khoanh trước ngực, Theobald nói, ‘Ernest, con không nghĩ là sẽ tốt hơn nhiều, nếu con nói ‘đến’ như người ta, thay vì ‘Tến’ hay sao?’
‘Con đã nói tến mà’ Ernest thưa lại, ý nó là nó đã nói ‘đến’.
Theobald luôn khó chịu vào tối chủ nhật. Cho dù là do cảm giác chán chường ngày chủ nhật giống như các giáo dân, hay do mệt mỏi, hay do bất kỳ lý do nào khác, thì có một sự thật là các giáo sỹ thường không có tâm trạng thật tốt vào buổi tối ngày này; tôi đã thấy những dấu hiệu đó nơi Theobald, và hơi lo ngại khi nghe Ernest nhanh miệng đáp lại ‘Con đã nói tến mà’ ngay khi cha nó vừa lên tiếng nhắc nhở.
Theobald nhận ra đứa trẻ đang cãi lại mình. Anh đứng dậy khỏi ghế và bước đến bên cây đàn.
‘Không, Ernest, con không được đọc như vậy,’ anh nói, ‘con chẳng đọc đúng gì hết, con nói ‘tến’ chứ không phải ‘đến’. Nào, bây giờ nói theo cha, ‘đến’.’
‘Tến,’ Ernest nói ngay, ‘vậy tốt hơn chưa?’ Tôi chắc rằng nó nghĩ là nó đã phát âm tốt hơn, nhưng thực ra không phải vậy.
‘Nào, nào, Ernest, con không chịu cố gắng; con không cố gắng cho đủ. Bây giờ là lúc con cần phải học để nói ‘đến’, sao ư, Joey có thể nói ‘đến’, đúng không, Joey?’
‘Dạ, con có thể,’ Joey trả lời, và rồi phát âm nghe gần với chữ ‘đến’.
‘Đó, con nghe chưa, Ernest? Chẳng có gì khó khăn cả, một chút cũng không. Nào, bây giờ đến lượt con, hãy nghĩ về từ đó, và nói theo cha, ‘đến’.’
Thằng bé im lặng chần chừ một khắc, rồi lại nói ‘tến’.
Tôi bật cười, nhưng Theobald quay sang tôi nóng nảy và nói, ‘Đừng có cười, anh Overton; như vậy sẽ làm cho đứa trẻ nghĩ rằng chuyện này vớ vẩn, nhưng đây là một chuyện quan trọng,’ rồi anh quay sang Ernest, ‘Nào, Ernest, ta sẽ cho con một cơ hội nữa, và nếu con không nói ‘đến’ được, thì ta sẽ biết là con ương bướng và hư đốn đến mức nào.’
Trông anh rất giận, và khuôn mặt Ernest thoáng hiện nét lo sợ, giống như con chó con lúc bị mắng mà chẳng hiểu duyên cớ vì sao. Nó thấy được điều gì sắp xảy đến, và e sợ, rồi nó cố gắng, nhưng tất nhiên, nó lại nói ‘tến’ một lần nữa.
‘Được lắm, Ernest,’ Theobald nói, rung rung đôi vai giận dữ. ‘Ta đã làm hết sức mình để dạy cho con, nhưng nếu con muốn làm như vậy, thì cứ làm,’ rồi anh lôi đứa trẻ tội nghiệp đang khóc vì sợ hãi ra khỏi phòng. Vài phút sau, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng thét từ phòng ăn, vang khắp sảnh ngăn giữa phòng khách với phòng ăn, và như thế có nghĩa là Ernest tội nghiệp đang bị đánh đòn.
‘Tôi đã cho nó đi ngủ,’ Theobald nói, lúc anh trở lại, ‘còn giờ, Christina, anh nghĩ là chúng ta nên gọi các người hầu vào để bắt đầu giờ kinh,’ rồi anh tự tay rung chuông, một việc đáng ra là của Christina.
Chương 23
Cậu hầu William vào và chuẩn bị ghế cho các cô hầu, rồi chẳng mấy chốc, họ đã tập trung đủ trong phòng. Đầu tiên là cô hầu của Christina, rồi đến anh đầu bếp, rồi chị hầu phòng, và cuối cùng là bác xà ích. Tôi ngồi đối diện với họ, và theo dõi khuôn mặt họ trong lúc Theobald đọc một đoạn Kinh Thánh. Họ là những con người rất tử tế, nhưng trên khuôn mặt lại là vẻ vô hồn hoàn toàn mà xưa nay tôi chưa từng thấy.
Theobald bắt đầu đọc một vài câu trong Cựu Ước theo cách riêng của anh. Đó là một đoạn trích trong chương mười lăm, sách Dân Số: về nội dung, thì đoạn này chẳng có gì đặc biệt, nhưng cái hơi hướng của nó lại phảng phất giống như chính Theobald vậy, và như thế sau khi nghe hết, tôi có thể hiểu rõ hơn là làm sao mà anh đi đến hành động và suy nghĩ như bây giờ.
Đoạn đó như sau:
‘Những kẻ nào cố tình phạm luật, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, thì nó xúc phạm đến chính Đức Chúa. Con người ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi đồng bào của nó. Vì nó đã khinh khi lời Đức Chúa và phế bỏ lệnh Người truyền. Con người ấy phải bị tiêu diệt. Nó phải mang lấy tội ác của nó.
Khi con cái Israel còn ở trong sa mạc, thì người ta bắt được một người đang lượm củi ngày Sabbath. Những người bắt được kẻ đang lượm củi liền điệu y tới ông Moses, ông aharon và toàn thể cộng đồng. Họ nhốt y lại vì chưa có quyết định phải xử với y như thế nào. Đức Chúa phán với ông Moses: ‘Con người ấy sẽ phải chết; toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó bên ngoài doanh trại.’ Theo lệnh Đức Chúa truyền cho ông Moses, toàn thể cộng đồng đã đưa y ra khỏi trại, ném đá y và y đã chết.
Đức Chúa phán với ông Moses: ‘Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo đó một sợi dây đỏ tía. Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Đức Chúa mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi.
Như thế các ngươi sẽ nhớ và thi hành tất cả các mệnh lệnh Ta truyền như những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa các ngươi. Chính Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai Cập để làm Thiên Chúa của các ngươi, Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi.’
Khi Theobald đọc đoạn trên, tôi cứ nghĩ vẩn vơ về một chuyện nhỏ mà tôi đã gặp vào chiều hôm đó.
Vài năm về trước, có một đàn ong đến làm tổ nơi mái nhà Theobald, dưới lớp ngói, và chúng sinh sôi nảy nở nhiều đến nỗi vào mùa hè, hễ mỗi khi mở cửa phòng khách là chúng lại thay nhau ùa vào lởn vởn đầy trong phòng. Giấy dán phòng khách là loại có tô điểm những đóa hồng trắng và đỏ, và đôi lần tôi thấy những con ong, bay đến những đóa hồng giả mà chúng tưởng là thật đó và cố thử xem chúng có mật không, chúng cứ thử từ đóa này qua bông khác, cho đến khi chạm phải trần nhà; rồi bắt đầu thử từng đóa một theo chiều đi xuống, cho đến khi đụng phải chiếc ghế sô pha, rồi chúng lại lần từng đóa lên lại, rồi lại xuống lại, cứ thế, cứ thế, cho đến khi tôi quá mệt mỏi không thể quan sát tiếp được nữa. Và giờ đây, khi nghĩ về những giờ kinh gia đình cứ lặp lại mỗi sáng mỗi tối, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, và năm này qua năm khác, tôi không thể tránh được ý nghĩ rằng, việc này cũng như kiểu con ong cứ lần theo những bông hoa giả lên lên xuống xuống, mà chẳng bao giờ ngờ được rằng quá nhiều những gì trưng ra được trước mắt họ chỉ là những vặt vãnh, còn thứ chính yếu vẫn cứ tránh mặt đi trong vô vọng, mãi mãi vô vọng.
Khi Theobald đã đọc xong, chúng tôi cùng quỳ xuống và cúi mặt xuống ghế, còn phía sau chúng tôi, hai bức tranh Carlo Dolci và Sassoferrato đang hướng mắt nhìn xuống. Tôi chú ý thấy rằng Theobald cầu nguyện cho chúng tôi được ‘thật lòng lương thiện và tận tâm’ trong mọi việc làm, và tôi cười cái từ ‘thật lòng’ của anh. Rồi tôi lại nghĩ về những con ong, và tôi suy tư thấy rằng xét đến cùng có lẽ đối với Theobald, chúng tôi cầu nguyện mà hiếm khi biết hướng tâm lên cho đủ, còn đối với tôi, tôi lại cầu nguyện cho sớm có một người sẽ làm cho Theobald những gì anh vừa làm với Ernest.
Tôi lại tiếp tục nghĩ vẩn vơ tính toán khoảng thời gian lãng phí vào việc cầu nguyện này, và liệu người ta sẽ làm được những gì với mười phút này nhỉ, rồi tôi nghĩ rằng ý nghĩ này của tôi, cũng như ý tưởng muốn lấy thời gian kinh nguyện để làm việc khác, chẳng được ai đón nhận đâu. Cuối cùng Theobald xướng lên ‘Nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con’ và vài giây sau buổi kinh nguyện kết thúc, các người hầu lại lục tục đi ra như lúc họ đi vào.
Ngay khi họ vừa rời khỏi phòng, Christina, đang cảm thấy xấu hổ vì tôi đã chứng kiến chuyện Ernest bị đánh đòn, nên đã dại dột nhắc lại chuyện đó với tôi, và bắt đầu bào chữa, nói rằng chuyện đó khiến tim cô đau nhói, cả Theobald cũng vậy và thậm chí còn hơn nữa, nhưng đó ‘chỉ là chuyện đã rồi.’
Tôi lãnh đạm với chuyện này trong mức độ lịch sự cho phép, và sự im lặng trong suốt những giờ còn lại của buổi tối thể hiện sự bất bình của tôi với những gì đã phải chứng kiến.
Ngay hôm sau, tôi lên đường về lại London, nhưng trước lúc đi, tôi bảo rằng muốn có vài quả trứng mới đẻ, và Theobald đưa tôi đến nhà của một nông dân trong làng, cách nhà anh khoảng một tầm ném đá. Ernest, vì một lý do nào đó, cũng được cho đi theo. Tôi nghĩ rằng những con gà đã bắt đầu đạp ổ, nhưng không hiểu sao mà quá hiếm trứng, và bà chủ nhà chỉ tìm được cho tôi khoảng bảy, tám quả, rồi chúng tôi gói chúng trong giấy thành từng quả một, để có thể an toàn đem về thành phố.
Chúng tôi làm việc này ngay trước cửa nhà nọ, và trong lúc còn chưa làm xong, thì đứa con của chủ nhà, cũng trạc tuổi Ernest bước qua một quả trứng đã được gói, và đạp vỡ mất.
‘Này này, Jack,’ mẹ nó lên tiếng, ‘xem con đã làm gì kìa, con đã đạp vỡ một quả trứng và làm tiêu mất một xu của mẹ. Emma, đây này,’ bà gọi đứa con gái, ‘đem thằng nhỏ đi chỗ khác, chúng ta có khách quý.’
Emma đến ngay và dắt thằng nhỏ đi, để nó đừng phá hư thêm cái gì nữa.