Tại sao tôi lại trải nghiệm cả hai cảm giác lạnh lẽo và ấm áp dựa vào những thông tin mà tôi có? Đó là vì những kí ức có liên kết của tôi rơi vào một trạng thái thiên vị trong tiềm thức. Nói theo cách khác, tôi đã tin tưởng một điều gì đó là đúng, thì tôi sẽ tập trung vào những sự kiện để xác nhận niềm tin của mình. Ví dụ, tôi tin rằng ngoài trời ấm áp thì tôi sẽ tập trung vào mặt trời, những con côn trùng bay xung quanh tôi, vào việc tôi thấy dễ chịu thế nào khi tìm được chút bóng râm, vào việc mọi người mặc những bộ quần áo mỏng, v.v… Nếu tôi tin rằng ngoài trời lạnh lẽo thì tôi sẽ chú ý tới cơn gió, bóng râm trở nên không dễ chịu, tôi nhìn vào những người mặc quần áo dày, và bối rối khi nhìn những người đang mặc quần áo cộc.
Điều tương tự xảy ra khi ai đó hỏi chúng ta một câu kiểu như “Quán này ăn có ngon không đấy?” Vì một vài lý do khác nhau, điều sẽ nảy lên trong đầu bạn sẽ liên quan đến chất lượng phục vụ hơn là câu hỏi “Quán này ăn có tệ không?” Đầu óc của chúng ta bắt đầu tìm kiếm để xác nhận các bằng chứng, hơn là cố gắng để bác bỏ. Chúng ta sẽ tìm kiếm những dữ liệu thích hợp với niềm tin mà hiện chúng ta đang giữ. Kể cả khi chúng ta không có đủ thông tin cần thiết để đưa ra một ý kiến đúng đắn thì đầu óc của chúng ta cũng sẽ vội vàng đi đến kết luận mà không cần hỏi lại:
“Tôi có cần biết thêm gì trước khi đưa ra ý kiến về chất lượng của nhà hàng này không?”
Việc đặt ra những câu hỏi như vậy thường không xảy ra mà không có sự nhận thức và tập trung, đặc biệt là nếu chúng ta không để ý tới chức năng của não bộ. Mục đích của chương này là để nâng cao nhận thức về việc thừa nhận rằng mình từ trước đến nay vẫn thiên vị, khiến cho bạn phải suy nghĩ về điều đó, khi bạn đứng trước một quyết định quan trọng, bạn sẽ có khả năng để tự hỏi bản thân mình thay vì vội vàng đưa ra những quyết định bản năng.
Thông điệp chủ đạo của cuốn sách Thinking Fast And Slow là chúng ta có hai chiều suy nghĩ. Một là sự trực giác, cảm tính, vô thức, tư duy tự động (Hệ thống 1), và một chiều có chủ ý, hợp lý, có ý thức và tư duy lý tính (Hệ thống 2). Do đó, những suy nghĩ nhanh gọn thuộc vào Hệ thống 1, suy nghĩ chậm thuộc Hệ thống 2, theo cách mà Kahneman gọi. Hệ thống 1 đưa ra những câu trả lời có phần bộc phát và Hệ thống 2 chịu trách nhiệm phản biện những câu trả lời của Hệ thống 1. Tuy nhiên, Hệ thống 2 sẽ trở nên chây ì và không thực tiễn khi bạn gặp phải tình huống phải ra quyết định thật nhanh.
Chúng ta hiếm khi suy nghĩ về mức độ của Hệ thống 2 bởi vì suy nghĩ theo trực giác thường sẽ nhanh hơn, và như tôi đã nói ở trên, chúng ta tin tưởng vào trực giác của mình. Chúng ta hiếm khi cảm thấy bí khi phải trả lời một câu hỏi. Thay vì tự hỏi về kiến thức và tính đúng đắn của vấn đề đó, chúng ta cảm tính đưa ra quan điểm về hầu hết tất cả mọi thứ.
Đối với một vài phạm vi thì điều này là bình thường. Tất nhiên, không thể lúc nào cũng đặt câu hỏi về từng quyết định hay phán xét chúng ta đưa ra mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây. Tuy thế, chúng ta càng siêng năng áp dụng Hệ thống tư duy số 2 vào cuộc sống của mình, chúng ta sẽ càng đưa ra các phê bình chính xác hơn, hoặc chúng ta càng nghiêm túc nhìn nhận sự việc thì sự đánh giá càng khách quan hơn.
Tuy nhiên, có một điểm yếu liên quan các câu hỏi phức tạp khi áp dụng Hệ thống số 2. Xuất hiện một cái bẫy, nếu tôi có thể gọi như vậy, mà chúng ta rất dễ mắc vào nếu không đủ tỉnh táo. Khi chúng ta đặt ra những câu hỏi phức tạp, chúng ta có xu hướng tìm một câu trả lời đơn giản hơn. Bộ não của chúng ta có cơ chế tự thay thế trong tiềm thức. Ví dụ, thay vì trả lời câu hỏi khó khăn ban đầu đó, “Tôi nghĩ thế nào về điều này?” chúng ta chuyển thành “Tôi cảm thấy thế nào về điều này?”
Đây là giải pháp sau cùng của lối tư duy theo Hệ thống 1 để đi đến câu trả lời nhanh gọn. Nhưng câu trả lời này không đúng với câu hỏi ban đầu.
Điều này nhắc nhở tôi nhớ lại những năm trung học của mình khi phải tham gia thi vấn đáp rất nhiều môn học khác nhau. Một lần tôi phải trả lời về các thành bang Hy Lạp nhưng lại không biết gì về chúng trừ một việc duy nhất là chỉ ra trên bản đồ, “Đây là Sparta!” Thay vì trả lời câu hỏi, và sau khi đưa ra những dữ liệu chung chung, tôi bắt đầu nói về việc các thành bang Hy Lạp gợi nhắc đến những thành phố tương tự ở Đế quốc La Mã, và dần dần tôi nói về đế quốc La Mã. Tôi biết rất nhiều về chủ đề này. Ví dụ trên minh họa rất rõ ràng cho thấy sự khác nhau giữa câu trả lời thực sự và câu trả lời tương tự nhưng lại không liên quan đến chủ đề được hỏi. Hãy nhớ rằng, lảng tránh việc trả lời câu hỏi thực sự giống như việc nói về Julius Caesar1 trong khi phải đáng ra phải là Leonidas2.
1 Julius Caesar là lãnh tụ quân sự và chính trị của La Mã cổ đại. Ông đóng một vai trò then chốt trong sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.
2 Leonidas là vua của người Sparta (một thành bang Hy Lạp) nổi danh lịch sử với vai trò lãnh đạo Liên minh Hy Lạp chống lại quân xâm lược Ba Tư hùng mạnh.
Vấn đề về định kiến con người
Cách thường thấy và dễ dàng nhất để nhanh chóng đưa ra đánh giá là dựa trên những định kiến về con người. Dù cho chúng đáng phải cân nhắc thận trọng, nhưng vì quan điểm “không có lửa làm sao có khói”, và dù sự thật có rành rành thì chúng vẫn không được nhìn nhận đúng đắn. Các định kiến này đôi khi dựa vào những thông tin và định nghĩa rất ít ỏi trong các nhóm khác nhau mà không hề xem xét về tính tương đồng. Các định kiến về phân biệt thường thiếu đi việc quan sát các nguyên nhân thực tế. Một dạng mất cân bằng tự nhiên khác về các định kiến con người đó là các nhóm đa số có những đặc điểm chính xác hơn là các nhóm thiểu số. Lý do đơn giản là ở nhóm đa số có nhiều bằng chứng quan sát được hơn so với nhóm thiểu số.
Nói thật đi, bạn có thường xuyên phán xét một ai đó về giới tính, chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quốc tịch của người đó không, hay thậm chí cả trường học cũng căn cứ vào những định kiến liên quan để đánh giá họ? Hay bạn không thường xuyên phán xét như vậy?
Hãy lấy một ví dụ về định kiến thường gặp là phụ nữ thì giàu cảm xúc hơn nam giới. Bây giờ hãy thử tưởng tượng một người đàn ông và một phụ nữ cùng xem bộ phim The Notebook, hoặc là Ps I love you (hay bất cứ bộ phim tình cảm lãng mạn nào). Họ đều có chung một phản ứng về xúc cảm bên trong giống nhau. Điểm khác biệt chỉ là cách họ thể hiện ra những xúc cảm đó. Phụ nữ khóc, còn đàn ông thì ngồi với một khuôn mặt đăm chiêu không biểu lộ cảm xúc. Không phải đàn ông thì có ít cảm xúc hơn. Mọi người vẫn thường kết luận rằng phụ nữ có nhiều xúc cảm hơn đơn giản chỉ bởi vì điều đó dễ thấy ngay trước mắt. Những người viết các bài về các chủ đề giới tính đều tập trung vào sự khác biệt hơn là sự tương đồng, khiến cho những định kiến giữa hai giới càng trở nên sâu sắc hơn.
Suy nghĩ và nói về định kiến cũng bắt nguồn từ việc thừa nhận sự thiên vị. Ý kiến phụ thuộc vào cách chúng ta tiếp cận một vấn đề. Nếu như chúng ta so sánh bản thân mình với một nhóm được định nghĩa bởi những sự khác biệt, thì chúng ta thường tưởng rằng mình có ít điểm chung với họ hơn so với thực tế. Còn nếu chúng ta tập trung vào những điểm tương đồng, chúng ta sẽ sở trên thân thiện hơn, ít chỉ trích và xấu tính hơn. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những sự khác biệt thực sự giữa các nhóm và giữa những con người. Điều này rất đỗi tự nhiên. Và việc lờ đi những sự khác biệt thực sự này thì cũng tệ như là việc thổi phồng nó lên.
Khi chúng ta nói về một kiểu người nào đó, hầu như chúng ta đều nghĩ đến những con người tiêu cực. Đừng quên rằng những kiểu người được đánh giá là tích cực cũng có thể trở nên nguy hiểm. Những nhóm người hay bị phân biệt chủng tộc trong đó có người Mỹ gốc Phi, họ rất giỏi về thể thao, và người châu Á thì lại giỏi toán. Ngay cả những mẫu người được cho là giỏi giang ấy cũng có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến việc những người khác nhìn nhận họ bởi lòng ghen tị, đố kị và chống đối tiêu cực.
Định kiến về con người nhìn chung là nguy hiểm, bởi lẽ chúng cho phép mọi người tự mặc định rằng tất cả những ai ở trong một nhóm nào đó thì đều giống hệt nhau. Người Latinh bị cho là thiếu trung thực, lừa đảo và thường liên hệ với nhóm người thiểu số Digan. Tôi thường xuyên trải nghiệm sự kì thị do những định kiến tiêu cực về những nhóm người này. Ngay cả khi tôi vẫn tự động viên rằng mình may mắn khi bị gán những nhãn tiêu cực ấy, thì họ vẫn cảm thấy đầy bất công và đau đớn.
Chúng ta nên giới hạn những phán xét của mình trong khuôn khổ một cá nhân – dù là phê bình tích cực hay tiêu cực. Đối với một nhóm người, chúng ta cũng nên làm như vậy. Họ không phải là mối đe dọa đối với chúng ta. Gần đây hình ảnh những người Hồi giáo xuất hiện nổi bật trên phương tiện truyền thông như là biểu tượng của khủng bố, là những người xấu xa và nguy hiểm. Những định kiến tệ hại cũng được xây dựng theo xung quanh họ. Tuy nhiên, khủng bố và người Hồi giáo không phải là một. Để nhấn mạnh quan điểm này, tôi xin đưa ra một ví dụ rất thực tế, sau đây là những lời của Tổng thống George W.Bush. Sau sự kiện ngày 11 tháng Chín, ông đã nói: “Những hành động bạo lực chống lại những người dân vô tội đã xâm phạm nghiêm trọng đến các nguyên tắc cơ bản trong đức tin của người Hồi giáo. Và những người anh em của tôi, những người Mỹ phải hiểu được điều rất quan trọng này. (…) Mang bộ mặt của một tên khủng bố trái với đức tin nguyên bản của Đạo Hồi. Đạo Hồi không phải là như vậy. Đạo Hồi là hòa bình. Những kẻ khủng bố không đại diện cho hòa bình.”
Bài thực hành cho chương này
1. Hôm nay tôi đã biết được một câu chuyện về một điều mà tôi đã từng biết rất ít về nó. Tôi thậm chí còn định kiến với nó. Tôi nên tự hỏi bản thân mình điều gì trước khi đưa ra kết luận?
…………………………………………………………………
2. Dựa vào lý thuyết của Kahneman, đâu là những nơi mà tôi có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong một điều kiện bình thường để đưa ra những phán đoán theo trực giác hay phê bình chính xác?
…………………………………………………………………
3. Hôm nay tôi đã phán xét một ai đó dựa trên những định kiến và khuôn mẫu. Bây giờ tôi dành thời gian để phân tích xem tại sao tôi lại đánh giá dựa vào những điều đó. Liệu tôi có đúng không? Nếu tôi không thể xác nhận những phán xét của mình là đúng, vậy liệu những đánh giá đó có công bằng không? Tôi có thể làm gì để tránh việc làm tổn thương người khác vào lần sau?
…………………………………………………………………