– Tao biết. Anh Thọ phải viết đơn vì là con em cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, có bố đang ở chiến trường, không thuộc diện gọi nghĩa vụ quân sự. Nhưng chỉ lần đầu viết bằng máu thật thôi. Ông ấy cầm con dao cau, cắt xoẹt ngang cổ tay một phát, trúng phải động mạch, máu phụt tóe loe khắp bàn. Lần thứ hai, ông ấy viết bằng mực, nhưng sợ người ta đánh giá giảm mức độ quyết tâm. Cắt tay tiếp thì sợ chẳng may lại trúng động mạch hay tĩnh mạch, nên nhờ tao với thằng Minh bắt vịt cắt tiết để lấy máu. Tao hỏi: “Anh cứ đi nước ngoài học vài năm rồi về đi bộ đội cũng có sao?”. Ông ấy nói: “Quê hương mình, mình đến tuổi trưởng thành, không cầm súng về giải phóng, còn trông cậy vào ai nữa?”.
Sau buổi họp đó, cả lớp không ai nhắc tới Đỗ nữa. Đỗ bỏ học luôn. Mấy chục năm sau, bạn bè cùng lớp cũng không ai gặp lại nó, dù nó vẫn ở trong làng Nam Đồng.
Trong lòng mọi người, Đỗ đã chết từ ngày đó.
Về phép
Ngày Chủ nhật, tình cờ mấy thằng đi bộ đội được về phép trùng nhau. Việt, Giang Cận, Tiến Thọt, Anh Sơn, Minh Dũng… Trông thằng nào cũng đen sạm nhưng rắn rỏi, nam tính hẳn lên, quân phục xúng xính, mũ cối mới tinh. Thằng nào cũng vui hớn hở, đặc biệt tiến bộ trong khoản tán gái và thơ tình, chẳng biết thơ chúng nó làm hay sưu tầm. Nổi tiếng nhất lúc đó là bài “Lính mà em”. Việt cho biết nó xin bài thơ này từ một anh biệt động Sài Gòn, nghe đâu là thơ của Lý Thuỵ Ý, đang rất phổ biến trong giới trẻ. Bài thơ vẽ nên một hình ảnh đẹp về người lính, dù nhiều người đọc chẳng biết bài thơ viết về người lính ở phía bên này hay phía bên kia. Nhưng lính tráng vốn đơn giản, dễ tính. Cái gì trong bài thơ hơi gợn một chút thì họ tự sửa lại, ví như câu: “Qua hành lang Eden ghi kỷ niệm – Buổi chiều mưa hai đứa đứng bên thềm” nghe không phải của bộ đội nhà mình, thế là được đổi thành “Qua xóm nhỏ anh ghi dòng lưu niệm – Trời mưa to, hai đứa nép bên thềm”. Nhưng ngạc nhiên nhất là sau một hồi vòng vèo, tác giả bài thơ biến thành Phạm Tiến Duật. Những người lính sẵn sàng tin rằng đây chỉ có thể là thơ của nhà thơ quân đội, chuyên viết về bộ đội, về đường ra trận và những cuộc chiến đấu..
Anh kể chuyện hành quân nằm sương gối súng
Trăng tiền đồn không đủ viết thư đêm
Nên thư cho em nét mờ, chữ vụng
Hãy hiểu dùm anh nhé – Lính mà em!
…
Ngày về phép, anh hẹn mình dạo phố
Tay chinh nhân đan năm ngón tay mềm
Mình xót xa đời anh nhiều gian khổ
Anh cười buồn khẽ nói: Lính mà em!
Ghét anh ghê! Chỉ được tài biện hộ
Làm “người ta” càng thương mến nhiều thêm
Nên xa lánh những cuộc vui thành phố
Để nhớ một người hay nói – LÍNH MÀ EM!
Khác với những đứa thích bài “Lính mà em”, Giang Cận lại bày tỏ quan điểm tình yêu của nó theo kiểu ngược lại. Chắc dạo này nó đang không có ai.
Xin hãy xê ra, thiếu nữ ơi
Xuân xanh nồng đậm thiếu chi người
Thân tôi chiến sĩ, cô đơn lắm
Tim rắn, nguồn thương cạn mất rồi.
Không biết Giang Cận nhặt mấy câu thơ vớ vẩn trên ở đâu vì có ai thấy nó làm thơ bao giờ, nghe chẳng có chất thơ nhưng lại được rất nhiều đứa thích. Có lẽ bài thơ này nói lên tâm sự của chúng nó. Chỉ đến khi khoác lên người bộ quần áo xanh, với những ngày lăn lê luyện tập trên thao trường, những chàng trai mới bắt đầu cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh và những ngày tháng gian khổ phía trước. Tâm trạng gác tình yêu lại, để thanh thản bước vào cuộc chiến xuất hiện. Bốn câu này chỉ có một dị bản. Minh Dũng bảo phải nói: “Xin hãy đi đi thiếu nữ ơi”. Anh Sơn tán thành “xê ra”, còn Việt ủng hộ “đi đi”.
Minh Dũng cũng góp một bài thơ, không biết sưu tầm ở đâu. Nó đọc xong, thằng nào nghe cũng thuộc ngay lập tức, dù thơ rất bậy bạ. Nhiều năm sau, cũng có đứa cố tìm hiểu nhưng không thể nào biết tác giả là ai. Một bài thơ tình rất “lính”:
Anh yêu em
Như măng yêu đá
Như lá yêu cây Như Tây yêu Đầm.
Anh yêu em
Chầm chậm… mênh mông…
Dải tình ta dài tới ba, bốn mét
Anh yêu em, không bao giờ nói phét
ĐM đứa nào nó bảo anh không yêu em!
Anh yêu em như bố em yêu mẹ em ngày trước.
Trên đời này chỉ có anh với em,
Ngoài ra thì kệ mẹ chúng nó!
Nếu hôm đó không có Nam Diễm từ khu Kim Liên được Lượng chở sang chơi, cuộc vui sẽ không phải là xuất phát điểm cho một chuyện buồn về sau, làm hai chàng trai Quân khu Nam Đồng bị bắt. Khi Hòa nói: “Đi lính sướng và vui thật đấy, lần này tao phải thuyết phục ông bà già cho nhập ngũ sớm kẻo chúng mày đánh hết giặc mất” thì Nam Diễm cười nhạt: “Mày đúng là đồ mơ mộng viển vông., Đi lính mà sướng và vui à? Nói cho mày biết, cực nhục, vất vả, luyện tập suốt ngày suốt đêm. Cơm gạo hẩm, độn hai phần ba hạt bo bo hoặc mì sợi, nhiều khi mì mốc. Thức ăn toàn rau muống chấm tương, cùng canh “đỗ đen”. Không phải canh nấu với đỗ đen đâu, mà là nước rau muống luộc nhưng múc lên thấy ruồi chết như đỗ đen… Tao không phải thằng hèn, ít nhất đến giờ này tao chưa đào ngũ. Nhưng tao không chịu nổi những câu ca ngợi sáo rỗng. Mặt trận là nơi gian khổ, vất vả, đói rét, bệnh tật, nếu không giết người thì bị người giết… thế mà bảo đó là nơi đẹp nhất? Tao muốn mày nhìn cuộc sống đúng bản chất của nó. Vì nếu không, lúc đó mày sẽ vỡ mộng, biết đâu lại vứt súng quay đầu? Đi bộ đội là nghĩa vụ, là bổn phận. Không thích đi cũng phải đi, không muốn bắn cũng phải bắn, không muốn chết cũng phải chết… Mày đừng có mơ mộng, lý tưởng hóa đời lính, khó nghe lắm”.
Hòa xưa nay vẫn xem Nam Diễm vừa là bạn, vừa là đầu sai, nay bị nó lên lớp như tát nước vào mặt cũng bất ngờ. Trước đây, nó mà nói cái giọng đó với Hòa, kiểu gì cũng bị túm tóc, đập đầu vào tường. Nhưng nay Nam Diễm đường đường là anh bộ đội, quân hàm quân hiệu oai phong, quần áo mới xúng xính, Hòa cũng nể. Nó hỏi Giang Cận: “Có đúng bọn mày khổ thế không?”. Giang Cận nhìn mọi người một lượt rồi nói: “Tao là lính cậu nên đỡ hơn, nhưng Nam Diễm nói cũng có phần đúng. Mình cần nhìn thẳng vào những khó khăn để chấp nhận, để vượt qua, đừng coi cuộc sống quân ngũ như một bài thơ rồi thất vọng”. Cuộc vui trầm xuống một lát. Nhưng Giang Cận lại nhe răng cười ngay: “Đói thì tất cả cùng đói mấy chục năm nay rồi chứ có phải bây giờ bọn mình mới đói đâu. Khổ thì cả nước mình đang khổ. Mới khổ có mấy ngày ăn thua quái gì. Mà kêu có bớt khổ hãy kêu, chứ kêu vẫn khổ thì kêu làm gì. Đi đánh giặc đã. Ngày chiến thắng trở về sẽ là ngày đẹp nhất”.
Nam Diễm vẫn không chịu: “Tao phải sống hết cuộc đời, đến khi nhắm mắt xuôi tay nhìn lại, tao mới nói được đời tao khúc nào đẹp nhất”. Hòa vỗ vai Nam Diễm: “Hôm tới tao sẽ lên đơn vị thăm mày, xem thế nào.. Nhưng tao thấy tất cả bọn khu Nam Đồng đi lính có thằng nào kêu ca như mày đâu”. Nam Diễm bốp chát: “Năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn. Tao là ngón ngắn của cách mạng. Mày lên thăm tao cũng tốt. Nhớ mang theo đồ tiếp tế nhé”.
Khanh rút trong cặp ra một chai rượu thuốc, lấy trộm từ hũ rượu của bố, rót cho cả đám. Giang Cận ôm đàn, hát nghêu ngao: “Xin hãy xê ra, thiếu nữ ơi. Cơm không, nhưng rượu có đây rồi. Bụng anh chiến sĩ đang rất đói…”.
Cả bọn lại vui tưng bừng.
Nhớ lời hẹn với Nam Diễm, đầu tuần Hòa rủ mọi người Chủ nhật này đi thăm bọn đi bộ đội. Nam Diễm đóng ở Nhổn, Việt ở Trung Hà nên cả bọn quyết định tiện đường sẽ thăm cả hai đứa. Lượng biết chuyện đi thăm Việt nên đòi đi, còn nói việc lo đồ tiếp tế cho các bạn bộ đội, xin các bạn khu Nam Đồng để Lượng đóng góp toàn bộ.
Sáng thứ Tư, Quốc Tẩm, Hoàng không đi học. Hôm sau cũng không thấy mặt hai đứa. Cô Ninh có vẻ không vui. Cô hỏi, nhưng tất cả các bạn khu Nam Đồng đều không biết tại sao bọn nó nghỉ học. Buổi chiều, Hòa và Khanh đến nhà tìm hiểu nhưng cả gia đình Hoàng và Quốc Tẩm đều không biết hai đứa đi đâu? Các bạn bên khu Kim Liên cũng cho biết từ sáng thứ Tư tới giờ Lượng không về nhà. Mỗi người đoán một kiểu. Người thì bảo ra hồ Nam Đồng kiểm tra xem, vì có thể chúng nó ra đó bơi, mà hồ này sâu lắm. Người thì nói có khi ba đứa bị bọn phố Hàng Buồm bắt cóc, thủ tiêu để trả thù trận đánh hồ Quảng Bá, vì trận đó bọn khu Nam Đồng đánh trọng thương “sư phụ” của chúng. Bọn này thù dai, lại thâm nữa, chúng nó có câu “quân tử trả thù mười năm chưa muộn!”. Có người nghi, hay là ba đứa trốn gia đình đi bộ đội.
Tới thứ Sáu thì mọi việc sáng tỏ: Quốc Tẩm và Hoàng bị công an bắt ở chợ trời Phùng Hưng vì tội đồng lõa với Lượng ăn cắp đài và đồng hồ. Hai đứa khai số đồ là của Lượng đưa cho bán. Lượng cũng bị bắt ngay sau đó.
Hỏa Lò
1
Lượng ở khu Kim Liên nhưng nhà nó cũng là gia đình cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết, giống nhiều đứa khu Nam Đồng. Lượng sinh ở Sài Gòn. Ba nó là cán bộ tình báo, hoạt động bị lộ nên cả gia đình phải lánh sang Campuchia, rồi từ đó được đưa ra miền Bắc. Lượng rất quý Việt. Nó bảo nếu Việt chưa có Hương, nó sẽ giới thiệu cho Việt em gái nó, rất xinh, kém Việt một tuổi. Lượng hiền lành, lúc nào cũng nói năng nhỏ nhẹ, nhưng không ai dám bắt nạt vì biết Lượng là bạn của hội Quân khu Nam Đồng, nổi tiếng từ vụ Tiến Còi. Hồi đó đang học lớp 9, giờ ra chơi buổi sáng Lượng nói với Việt: “Hôm qua thằng Tiến Còi lớp 9G, hội Hảo Bẹt, đánh Lượng. Nó bảo Lượng người khu Kim Liên mà lúc nào cũng bám đít bọn khu Nam Đồng”. Việt đang đứng ở hành lang tầng ba, thấy Tiến Còi đang từ dưới sân trường đi lên, liền ra đứng chặn ở đầu cầu thang. Ngọc và Giang vô tình nghe thấy chuyện của Lượng, cũng đi theo. Mỗi đứa mới đánh Tiến Còi có một cái mà nó đã lăn quay ra. Tình cờ lúc đó Hòa đi tới. Tiện chân, Hòa cho luôn một cái đá vào đầu. Việt đỡ Tiến Còi dậy, bảo: “Đánh vì cái tội bắt nạt Lượng hôm qua nhé, không thì lại thắc mắc không hiểu làm sao bị đánh!”. Nói đoạn nó vỗ vỗ vào má Tiến Còi, giống như nựng trẻ con: “Nhớ chưa, từ giờ không được đánh bạn nữa nhé!”.