“Chúa ơi,” Ambra thốt lên, “Tôi nghĩ tôi biết tại sao Winston chọn bắt chước phong cách Miró rồi!”
“Thế ư?”
“Cung điện chúng ta vừa bay qua phía trên chính là Cung Pedralbes.”
“¿Pedralbes?” Langdon hỏi. “Đó chẳng phải là tên của…”
“Vâng! Một trong những bức phác thảo nổi tiếng nhất của Miró. Winston có lẽ đã nghiên cứu khu vực này và tìm thấy một mối liên hệ địa phương với Miró!”
Langdon phải thừa nhận, sự sáng tạo của Winston thật đáng kinh ngạc và ông cảm thấy phấn khởi một cách lạ lùng trước triển vọng kết nối lại được với trí thông minh nhân tạo của Edmond. Khi trực thăng hạ thấp xuống, Langdon nhìn cái bóng đen thẫm của một tòa nhà lớn tọa lạc ở đúng cái vị trí nơi Winston vẽ con mắt.
“Nhìn kìa…” Ambra chỉ tay. “Đó phải là nó.”
Langdon căng mắt để nhìn tòa nhà bị những thân cây lớn che khuất cho rõ hơn. Thậm chí từ trên không trung, trông nó đã thật ghê gớm.
“Tôi không nhìn thấy ánh đèn,” Ambra nói. “Anh có nghĩ chúng ta vào được trong không?”
“Chắc có người ở đó,” Langdon nói. “Edmond chắc phải có sẵn nhân viên, đặc biệt vào tối nay. Khi họ nhận ra chúng ta có mật khẩu của Edmond… tôi nghĩ họ sẽ tranh nhau giúp ta kích hoạt bài thuyết trình.”
Mười lăm giây sau, chiếc trực thăng chạm xuống một công viên hình bán nguyệt rộng rãi ở rìa phía Đông khối nhà của Winston. Langdon và Ambra nhảy ra, và chiếc trực thăng bốc lên cao ngay lập tức, lao về phía sân bóng, nơi nó sẽ đợi thêm chỉ dẫn.
Khi hai người vội vã băng qua công viên tối om về phía trung tâm khu nhà, họ vượt qua một đường phố nội bộ nhỏ, Passeig dels Tillers, và di chuyển vào một khu vực trồng cây rất dày. Đằng trước, bị cây cối che lấp, họ nhìn thấy bóng dáng một tòa nhà đồ sộ và rộng lớn.
“Không có ánh đèn,” Ambra thì thào.
“Và có hàng rào,” Langdon nói, cau mày khi họ đến một hàng rào an ninh bằng sắt rèn cao ba mét bao quanh toàn bộ quần thể. Ông nhìn qua các chấn song, không thể nhìn được gì nhiều của tòa nhà bên trong khuôn viên như rừng này. Ông cảm thấy bối rối khi không hề thấy ánh đèn.
“Đằng kia,” Ambra nói, chỉ xuôi theo hàng rào khoảng hai mươi mét. “Tôi nghĩ có một cánh cổng.”
Họ hối hả men theo hàng rào và thấy một khuôn cửa quay rất đường bệ, đã được khóa chặt. Có một hộp thoại điện tử, và Langdon còn chưa kịp cân nhắc các lựa chọn của họ thì Ambra đã bấm nút gọi.
Đường dây đổ chuông hai lần và kết nối.
Im lặng.
“Xin chào?” Ambra nói. “Xin chào?”
Không có giọng nói nào vọng qua loa – chỉ có tiếng u u rất đáng ngại của một đường dây đã thông máy.
“Tôi không biết các vị có nghe được tôi nói không,” nàng nói, “nhưng đây là Ambra Vidal và Robert Langdon. Chúng tôi là bạn bè tin cẩn của Edmond Kirsch. Chúng tôi ở bên anh ấy tối nay lúc anh ấy bị giết. Chúng tôi có thông tin cực kỳ hữu ích cho Edmond, cho Winston, và tôi tin là cho tất cả các vị.”
Có một tiếng xạch.
Langdon lập tức đặt tay lên khuôn cửa quay, lúc này chuyển động dễ dàng.
Ông thở phào. “Tôi đã nói với cô là có người ở nhà mà.”
Hai người hối hả đẩy qua khuôn cửa quay an ninh và đi qua chỗ cây cối về phía tòa nhà tối đen. Khi họ tới gần hơn, đường nét của phần mái bắt đầu định hình trên nền trời. Một cái bóng bất ngờ hiện rõ – một biểu tượng cao tới hơn bốn mét rưỡi dựng trên đỉnh mái.
Ambra và Langdon dừng sững lại.
Thế này không đúng, Langdon nghĩ, trân trối nhìn cái biểu tượng không lẫn vào đâu được phía trên họ. Phòng máy tính của Edmond lại có một thập tự khổng lồ trên nóc sao?
Langdon bước thêm vài bước và thoát ra khỏi đám cây cối. Khi làm vậy, toàn bộ mặt tiền của tòa nhà hiện ra, và đó là một cảnh tượng đáng ngạc nhiên – một nhà thờ Gothic cổ kính với một ô cửa sổ hoa hồng rất lớn, hai tháp chuông đá và một khuôn cửa duyên dáng được trang trí những hình đắp nổi các vị thánh của Công giáo và Đức mẹ Đồng trinh Mary.
Ambra đầy vẻ kinh hãi. “Anh Robert, tôi nghĩ chúng ta vừa đột nhập vào khuôn viên của một nhà thờ Công giáo. Chúng ta đến nhầm chỗ rồi.”
Langdon nhận ra một tấm biển đằng trước nhà thờ và bắt đầu cười. “Không, tôi nghĩ chúng ta ở đúng chỗ rồi.”
Cái cơ sở này từng xuất hiện trên thời sự vài năm trước, nhưng Langdon không hề nhận ra nó lại ở Barcelona. Một phòng thí nghiệm công nghệ cao được xây dựng bên trong một nhà thờ Công giáo bỏ đi. Langdon phải thừa nhận nó dường như là điện thờ tối thượng cho một nhân vật vô thần bất kính khi xây dựng một chiếc máy tính vô thần. Khi ngước nhìn lên tòa nhà thờ giờ đã không còn hoạt động, ông cảm thấy ớn lạnh vào giây phút nhận ra sự tiên liệu khi Edmond lựa chọn mật khẩu của anh.
Mọi tôn giáo u tối tiêu vong & khoa học lành mạnh thống trị.
Langdon kéo sự chú ý của Ambra tới tấm biển.
Nó ghi:
TRUNG TÂM SIÊU ĐIỆN TOÁN BARCELONA
CENTRO NACIONAL DE SUPERCOMPUTACIÓN
Ambra ngoảnh nhìn ông với vẻ không tin nổi. “Barcelona có một trung tâm siêu tin học bên trong một nhà thờ Công giáo ư?”
“Chính thế.” Langdon mỉm cười. “Nhiều khi sự thật còn lạ lùng hơn cả viễn tưởng.”
CHƯƠNG 81
Cây thập tự cao nhất thế giới nằm ở Tây Ban Nha.
Dựng trên đỉnh núi cách gần mười ba kilomet về phía Bắc tu viện El Escorial, cây thập tự bằng xi măng đồ sộ vươn cao hơn một trăm năm mươi mét trong không trung bên trên một thung lũng cằn cỗi, nơi có thể nhìn thấy nó từ cách xa hơn một trăm sáu mươi kilomet.
Hẻm núi đá bên dưới cây thập tự – được đặt tên rất hợp là Thung lũng Những người ngã xuống – chính là nơi an nghỉ của hơn bốn mươi nghìn sinh linh, những nạn nhân của cả hai phe trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha đẫm máu.
Chúng ta đang làm gì ở đây? Julián tự hỏi khi theo nhóm Cận vệ bước ra lối đi bộ dành để ngắm cảnh ở chân núi bên dưới cây thập tự. Đây là nơi cha ta muốn gặp sao?
Bước đi bên cạnh chàng, Valdespino trông bối rối chẳng kém. “Việc này rất vô lý,” ông ta thì thào. “Cha ngài lúc nào cũng không thích nơi này.”
Cả triệu lần không thích nơi này, Julián nghĩ.
Được đích thân Franco nghĩ ra vào năm 1940, Thung lũng Những người ngã xuống được mô tả như “một hành động chuộc lỗi quốc gia” – một nỗ lực nhằm hòa giải cả phe chiến thắng lẫn bên thất bại. Bất chấp “mong ước cao quý” của nó, đài tưởng niệm này vẫn gây tranh cãi cho đến tận ngày nay vì nó được xây dựng bởi một lực lượng lao động bao gồm cả các thường phạm và tù chính trị từng chống đối Franco – nhiều người đã chết do dãi dầu mưa nắng và đói rét trong quá trình xây dựng.
Trong quá khứ, một số nghị sĩ thậm chí còn so sánh nơi này với một trại tập trung của Quốc xã. Julián ngờ rằng cha mình cũng thầm cảm thấy như vậy, cho dù ông ấy chưa bao giờ công khai nói ra. Với hầu hết người Tây Ban Nha, địa điểm này được xem như một đài tưởng niệm dành cho Franco, do Franco xây dựng – một đền thờ khổng lồ nhằm tôn vinh ông ta. Sự thật là Franco hiện được chôn cất trong đó chỉ càng làm tăng thêm ngọn lửa chỉ trích.
Julián nhớ lại có một lần mình từng tới đây – một cuộc đi chơi khác thời niên thiếu cùng với cha để tìm hiểu về đất nước mình. Nhà vua đã chỉ ra xung quanh và khẽ thì thầm với chàng. Hãy nhìn thật cẩn thận, con trai. Một ngày nào đó con sẽ kéo đổ thứ này xuống.
Lúc này, khi Julián theo đội Cận vệ leo lên các bậc thang dẫn tới phần mặt tiền đơn giản được đẽo vào sườn núi, chàng bắt đầu nhận ra nơi họ đang đi tới. Một cánh cửa bằng đồng được chạm khắc hiện ra lù lù trước mắt – một cánh cổng ngay phần trước ngọn núi – và Julián nhớ mình đã từng bước qua cánh cửa đó khi còn là một cậu bé, hoàn toàn chết khiếp trước những gì nằm phía sau.
Nói cho cùng, phép mầu đích thực của đỉnh núi này không phải là cây thập tự cao ngất nghểu phía trên mà là cái không gian bí mật bên trong nó.
Được khoét rỗng ngay bên trong đỉnh núi đá granite là một cái hang nhân tạo có tỉ lệ khó đoán định. Cái hang đào bằng tay này tạo thành một đường hầm ăn sâu gần ba trăm mét vào trong quả núi, nơi nó mở rộng thành một lòng hang trống hoác, được hoàn thiện rất tỉ mỉ và trang nhã, với sàn lát gạch lấp lánh và một mái vòm có vẽ tranh cao vút chạy hơn bốn mươi lăm mét từ bên này sang bên kia. Mình đang ở bên trong một quả núi, cậu bé Julián nghĩ. Chắc là mình đang mơ!
Còn giờ đây, sau nhiều năm, Hoàng tử Julián trở lại.
Đến đây theo mệnh lệnh của người cha đang hấp hối của ta.
Khi cả nhóm đến gần cánh cửa sắt, Julián ngước nhìn tượng Đức mẹ đau khổ bằng đồng trông rất khắc khổ phía trên cánh cửa. Bên cạnh chàng, Giám mục Valdespino làm dấu thánh, dù rằng Julián nhận thấy động tác đó là do cảm giác lo lắng nhiều hơn là đức tin.
CHƯƠNG 82
🌐 ConspiracyNet
TIN NÓNG
NHƯNG… NHIẾP CHÍNH VƯƠNG LÀ AI?
Lúc này, bằng chứng xuất hiện chứng minh rằng sát thủ Luis Ávila nhận lệnh giết người trực tiếp từ một nhân vật ông ta gọi là Nhiếp chính vương.
Danh tính Nhiếp chính vương vẫn là một bí ẩn, mặc dù tước hiệu của người này có thể cung cấp một số manh mối. Theo trang dictionary.com, một “Nhiếp chính vương” là người được bổ nhiệm để trông nom một tổ chức trong khi thủ lĩnh của tổ chức ấy bị mất tư cách hoặc vắng mặt.
Từ Khảo sát Người dùng của chúng tôi “Nhiếp chính vương là ai?” – ba câu trả lời hàng đầu của chúng tôi lúc này là:
1. Giám mục Antonio Valdespino thay thế cho Đức vua Tây Ban Nha đang ốm nặng
2. Một giáo hoàng Palmaria tin rằng mình là đức thánh cha hợp pháp
3. Một sĩ quan quân đội Tây Ban Nha tuyên bố hành động nhân danh vị tổng tư lệnh đã bị mất năng lực của đất nước, Đức vua
Sẽ có thêm tin khi chúng tôi nắm được!
#NHIẾPCHÍNHVƯƠNGLÀAI