“Thực tế, đó là công việc của tôi mà.” Hướng dẫn viên bật ra tiếng cười lóng ngóng và đột ngột chuyển đề tài. “Bây giờ, thưa Giáo sư, nếu ngài đi qua tiền sảnh về phía cửa sổ, ngài sẽ thấy bức tranh lớn nhất của bảo tàng.”
Lúc Langdon bắt đầu bước qua tiền sảnh, ông đi qua một cặp đôi khoảng ba mươi tuổi trông rất gợi cảm cùng đội mũ lưỡi trai chơi bóng chày màu trắng giống nhau. Phần trước cả hai cái mũ, thay vì trang trí một biểu trưng công ty, lại là một biểu tượng gây ngạc nhiên.
Đó là một biểu tượng Langdon biết rất rõ, nhưng ông chưa bao giờ thấy nó trên mũ lưỡi trai cả. Những năm gần đây, chữ cái A cách điệu rất nhiều này trở thành một biểu tượng phổ biến cho một trong những nhóm người gia tăng nhanh nhất và có tiếng nói ngày càng tăng trên hành tinh này – những người vô thần – những người bắt đầu lên tiếng mạnh mẽ hơn mỗi ngày nhằm phản đối những gì họ xem là những hiểm họa của niềm tin tôn giáo.
Những người vô thần giờ đã có mũ lưỡi trai riêng của họ rồi ư?
Khi quan sát tập hợp toàn những thiên tài đam mê công nghệ láo nháo quanh mình, Langdon tự nhủ rằng nhiều người trong số những bộ óc trẻ trung giỏi phân tích này có lẽ rất bài tôn giáo, giống như Edmond vậy.
Cử tọa tối nay đích xác không phải là “đám đông sân nhà” với một giáo sư biểu tượng tôn giáo.
CHƯƠNG 4
🌐 ConspiracyNet
TIN NÓNG
Cập nhật: Có thể xem “Top 10 bản tin truyền thông trong ngày” của ConspiracyNet bằng cách bấm vào đây. Chúng tôi cũng có một bản tin rất mới vừa được công bố!
EDMOND KIRSCH TUYÊN BỐ GÂY NGẠC NHIÊN?
Tối nay, những ông lớn công nghệ đổ về Bilbao, Tây Ban Nha, để tham dự một sự kiện VIP do nhà vị lai chủ nghĩa Edmond Kirsch chủ trì tại Bảo tàng Guggenheim. An ninh thắt chặt nghiêm ngặt và khách khứa không được thông báo mục đích của sự kiện, nhưng ConspiracyNet đã nhận được một mẩu tin từ một nguồn bên trong gợi ý rằng Edmond Kirsch sắp phát biểu và có kế hoạch gây ngạc nhiên cho khách khứa của mình bằng một tuyên bố khoa học lớn. ConspiracyNet sẽ tiếp tục theo dõi câu chuyện này và cung cấp tin tức ngay khi chúng tôi nhận được.
CHƯƠNG 5
Giáo đường Do Thái lớn nhất châu Âu nằm tại Budapest trên Phố Dohány. Được xây dựng theo phong cách Moor với cặp tháp nhọn đồ sộ, giáo đường có đủ chỗ cho hơn ba nghìn tín đồ – với những hàng ghế dài dưới nhà cho nam giới và các ghế băng trên ban công cho phụ nữ.
Ngoài vườn, có một hố chôn tập thể là nơi mai táng xác của những người Do Thái Hungary đã chết trong những sự kiện kinh khủng thời Đức Quốc xã chiếm đóng. Nơi này được đánh dấu bằng một Cây Sự sống – một tác phẩm điêu khắc bằng kim loại mô tả một cây liễu rủ với mỗi nhành lá có khắc tên một nạn nhân. Khi có gió thổi, những nhành lá kim loại lanh canh va vào nhau, vang lên thứ tiếng vọng rất kỳ quái phía trên vùng đất thánh thiêng.
Suốt hơn ba thập niên, vị thủ lĩnh tinh thần của Đại Giáo đường là học giả giáo luật kiêm thầy bí thuật rất xuất chúng – Giáo trưởng Yehuda Köves – người mà, mặc dù tuổi tác đã cao và sức khỏe yếu, vẫn là một thành viên tích cực của cộng đồng Do Thái ở cả Hungary và trên thế giới.
Lúc mặt trời lặn bên kia dòng Danube, Giáo trưởng Köves rời giáo đường. Ông băng qua các gian hàng và “những quầy rượu đổ nát” bí ẩn của Phố Dohány trên đường trở về nhà mình chỗ Quảng trường Marcius 15, chỉ cách Cầu Elisabeth một tầm ném đá, công trình kết nối hai thành phố cổ Buda và Pest, được chính thức hợp nhất năm 1873.
Kỳ lễ Quá hải đang đến rất gần – bình thường đây vẫn là một trong những khoảng thời gian vui vẻ nhất trong năm của Köves – thế nhưng, kể từ lúc từ Nghị viện các Tôn giáo Thế giới trở về tuần trước, ông chỉ cảm thấy một sự lo lắng vô tận.
Ước gì ta không bao giờ tham dự.
Buổi gặp gỡ đặc biệt với Giám mục Valdespino, Allamah Syed al-Fadl và nhà vị lai chủ nghĩa Edmond Kirsch đã ám ảnh suy nghĩ của Köves suốt ba ngày liền.
Giờ đây, lúc Köves về đến nhà, ông sải bước thẳng ra khu vườn trong sân và mở khóa căn házikó – căn nhà gỗ nhỏ dùng làm điện thờ và phòng làm việc riêng của ông.
Căn nhà gỗ là một gian phòng duy nhất với những giá sách cao võng xuống dưới sức nặng của những bộ sách tôn giáo. Köves sải bước tới bên bàn làm việc và ngồi xuống, cau mày nhìn mớ lộn xộn trước mặt.
Nếu có bất kỳ ai nhìn thấy bàn của ta trong tuần này, họ sẽ nghĩ ta mất trí.
La liệt khắp mặt bàn, có đến nửa tá văn bản tôn giáo khó hiểu mở toang, có gắn những miếng dán ghi chú. Đằng sau đó, cũng mở toang trên những chiếc giá gỗ, là ba tập sách nặng trịch – các bản tiếng Do Thái, tiếng Aramaic*, và cả bản tiếng Anh của bộ Ngũ thư* – tập nào cũng mở vào đúng một cuốn. (tiếng Aramaic là ngôn ngữ chính của vùng Cận Đông cổ đại, hình thành khoảng thế kỷ IV trước Công nguyên, hiện còn thông dụng ở Syria, Iran, Iraq. Ngũ thư bao gồm năm quyển sách đầu tiên trong Thánh kinh Do Thái giáo.)
Sáng thế ký.
Lúc mở đầu…
Dĩ nhiên, bằng trí nhớ, Köves có thể trích dẫn Sáng thế ký bằng cả ba thứ ngôn ngữ; ông càng có khả năng đọc những dẫn giải học thuật về kinh điển Zohar hay còn gọi là luận thuyết vũ trụ học bí truyền cao cấp. Với một học giả có năng lực như Köves thì nghiên cứu Sáng thế ký chẳng khác gì Einstein quay lại nghiên cứu số học bậc tiểu học. Tuy nhiên, đó lại chính là những gì ngài giáo trưởng thực hiện trong tuần này, và tập giấy ghi chép trên bàn ông xem ra đã nhằng nhịt những dòng ghi chú nguệch ngoạc viết vội, lộn xộn đến mức chính Köves cũng khó nhận ra.
Trông mình như đã hóa điên mất rồi.
Giáo trưởng Köves bắt đầu với Ngũ thư – câu chuyện Sáng thế ký mà cả người Do Thái và người Thiên Chúa giáo cùng chung nhau. Lúc mở đầu Chúa trời tạo ra Thiên đàng và Trái Đất. Tiếp đến, ông chuyển sang những văn bản chỉ dẫn về giáo luật Do Thái, đọc lại những chỗ giải thích của các bậc giáo trưởng về Ma’aseh Bereshit – Công việc Sáng tạo. Sau đó, ông lại nghiên cứu kỹ thuật giảng giải Kinh thánh Do Thái, nghiền ngẫm những dẫn giải của nhiều bậc trí giả khả kính, những người đã cố gắng giải thích những điểm mâu thuẫn dễ thấy trong câu chuyện Sáng tạo truyền thống. Cuối cùng, Köves vùi mình trong khoa học bí truyền của kinh điển Zohar, trong đó vị Chúa trời bất khả tri thể hiện mười sephirot, hay phương diện, khác nhau bố trí dọc theo các mạch nguồn gọi là Cây Sự sống, từ đó trổ ra bốn vũ trụ riêng biệt.
Tính chất phức tạp khó hiểu của các tín điều hình thành nên Do Thái giáo vốn lại luôn khiến Köves thấy dễ chịu – một lời nhắc nhở từ Chúa trời rằng ngài không có ý định để nhân loại hiểu tất cả mọi việc. Và lúc này đây, sau khi xem thuyết trình của Edmond Kirsch và suy ngẫm về sự đơn giản và rõ ràng trong những gì Kirsch phát hiện ra, Köves cảm thấy như thể mình đã bỏ ra ba ngày vừa qua chỉ để nghiền ngẫm một mớ những điều mâu thuẫn lỗi thời. Đã có lúc, tất cả những gì ông có thể làm là gạt bỏ những văn bản cổ của mình và đi bộ một quãng dài dọc sông Danube để tập trung suy nghĩ.
Cuối cùng, Giáo trưởng Köves cũng bắt đầu chấp nhận một sự thật đau đớn: Thực tế, công trình của Kirsch sẽ có những tác động tai hại cho những sinh linh sùng đạo trên thế giới này. Khám phá của nhà khoa học này trái ngược rõ rệt gần như với tất cả những giáo điều tôn giáo đã từng được xác lập và cái điều ấy lại thể hiện một cách thuyết phục và đơn giản đến xót xa.
Ta không thể quên được hình ảnh cuối cùng ấy, Köves nghĩ, nhớ lại phần kết luận kinh khủng trong thuyết trình của Kirsch mà họ đã xem trên chiếc điện thoại quá khổ của Kirsch. Tin tức này sẽ tác động đến mọi con người – không chỉ những người mộ đạo.
Giờ đây, bất chấp mọi nghiền ngẫm của ông suốt vài ngày qua, Giáo trưởng Köves vẫn cảm thấy không tiến triển chút nào để biết cần phải làm gì với thông tin mà Kirsch cung cấp.
Ông ngờ rằng Valdespino và al-Fadl cũng chẳng thấy gì sáng tỏ hơn. Cả ba người đã liên lạc qua điện thoại hai ngày trước, nhưng cuộc trò chuyện không đem lại kết quả gì.
“Các bạn của tôi,” Valdespino mở lời. “Rõ ràng, thuyết trình của anh Kirsch rất đáng ngại… ở nhiều cấp độ. Tôi đã giục anh ta gọi và thảo luận thêm với tôi, nhưng anh ta im bặt. Giờ tôi tin chúng ta phải đưa ra một quyết định.”
“Tôi đã có quyết định của mình,” al-Fadl nói. “Chúng ta không thể ngồi yên. Chúng ta cần kiểm soát tình hình này. Ai cũng rõ là Kirsch rất coi thường tôn giáo và anh ta sẽ trình bày phát hiện của mình theo cách gây hại hết mức cho tương lai của niềm tin. Chúng ta phải chủ động thôi. Chúng ta phải đích thân công bố phát hiện của anh ta. Ngay lập tức. Chúng ta phải soi rọi nó bằng thứ ánh sáng phù hợp để làm nhẹ bớt tác động và khiến cho nó bớt hăm dọa các tín đồ trong thế giới tinh thần.”
“Tôi nhận ra là chúng ta thảo luận chuyện công bố,” Valdespino nói, “nhưng rất tiếc, tôi không sao hình dung được ta phải trình bày thông tin này mà không gây hăm dọa như thế nào.” Ông thở dài thườn thượt. “Lại còn vấn đề chúng ta đã thề với Kirsch rằng chúng ta sẽ giữ bí mật cho anh ta.”
“Phải,” al-Fadl nói, “và tôi cũng thấy mâu thuẫn trong chuyện vi phạm lời thề ấy, nhưng tôi cảm thấy chúng ta phải chọn phưong án bớt tệ hại hơn và hành động nhân danh điều tốt đẹp hơn. Tất cả chúng ta đều bị công kích – Hồi giáo, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Ấn giáo, mọi tôn giáo – và cứ nghĩ đến những tín điều của chúng ta đều đồng quy trên những chân lý cơ bản mà Kirsch đang hủy hoại, chúng ta có nghĩa vụ nói ra vấn đề này theo cách không làm tổn hại các cộng đồng của mình.”