Nguồn cội – Dan Brown

“Chà, cô sẽ không có được lời nào từ tôi,” Garza bình thản trả lời. “Tôi chẳng có gì liên quan tới chuyện này cả. Những cáo buộc của cô hoàn toàn sai trái.”

Martín bồn chồn liếc qua vai. Sau đó, cô bước lại gần hơn, thì thầm vào tai Garza. “Tôi biết… tôi cần ngài nghe cho kỹ đây.”

CHƯƠNG 68

Đang theo dõi ⬆ 2747%

🌐 ConspiracyNet

TIN NÓNG

VỀ CÁC GIÁO HOÀNG ĐỐI CỬ… NHỮNG BÀN TAY CHẢY MÁU… VÀ NHỮNG ĐÔI MẮT BỊ KHÂU KÍN…

Những câu chuyện lạ lùng ngay trong Giáo hội Palmaria.

Các nội dung đăng tải từ các nhóm tin Thiên Chúa giáo trực tuyến lúc này xác nhận rằng Đô đốc Luis Ávila là một thành viên tích cực của Giáo hội Palmaria, tham gia đã được vài năm.

Là một người ủng hộ “có danh vọng” của Giáo hội, đô đốc hải quân Luis Ávila liên tục ca ngợi giáo hoàng Palmaria vì đã “cứu vớt cuộc đời ông ta” sau giai đoạn suy sụp nặng nề do mất gia đình trong một vụ tấn công khủng bố bài Thiên Chúa giáo.

Vì chính sách của ConspiracyNet là không bao giờ ủng hộ hay quy kết các thiết chế tôn giáo nên chúng tôi đăng tải hàng chục đường dẫn ngoài về Giáo hội Palmaria ở đây.

Chúng tôi thông tin. Quý vị quyết định.

Xin hãy chú ý, nhiều tuyên bố trên mạng liên quan đến Palmaria khá sốc và vì thế chúng tôi đề nghị quý vị – những người dùng của chúng tôi – giúp sàng lọc sự thật và sự bịa đặt.

Những “sự thật” dưới đây được gửi tới chúng tôi bởi người thông tin xuất sắc [email protected], với thành tích tuyệt vời tối nay cho thấy rằng những sự thật này là chính xác, nhưng trước khi chúng tôi đưa tin như vậy, chúng tôi hy vọng một số người dùng của chúng tôi có thể cung cấp bằng chứng bổ sung mạnh mẽ để củng cố hoặc bác bỏ những nội dung đó.

“SỰ THẬT”

• Giáo hoàng Palmaria Clemente mất cả hai nhãn cầu trong một vụ tai nạn xe hơi năm 1976 và tiếp tục truyền đạo suốt một thập kỷ với hai mắt bị bưng kín.

• Giáo hoàng Clemente có dấu chúa trên cả hai bàn tay thường xuyên rỉ máu khi ông ấy thấy ảo cảnh.

• Vài giáo hoàng Palmaria là các sĩ quan của quân đội Tây Ban Nha với những lý tưởng mạnh mẽ theo phong trào ủng hộ Don Carlos.

• Các thành viên Giáo hội Palmaria bị cấm nói chuyện với gia đình mình và vài thành viên đã chết do suy dinh dưỡng hoặc bị bạo hành.

• Các tín đồ Palmaria bị cấm (1) đọc sách của các tác giả không phải tín đồ Palmaria, (2) tham dự các lễ cưới hoặc lễ tang gia đình trừ phi gia đình họ theo đạo Palmaria, (3) tới các bể bơi, bãi biển, các trận đấm bốc, các vũ trường, hoặc bất kỳ địa điểm nào trưng cây thông Giáng sinh hoặc hình ảnh Ông già Noel.

• Tín đồ Palmaria tin Kẻ thù của Chúa sinh vào năm 2000.

• Các nhà tuyển mộ của Palmaria hiện diện tại Hoa Kỳ, Canada, Đức, Áo và Ireland.

CHƯƠNG 69

Khi Langdon và Ambra theo Đức cha Beña tiến về phía cánh cửa bằng đồng đồ sộ của Sagrada Família, Langdon thấy mình, như vẫn luôn vậy, lại lấy làm lạ trước những chi tiết vô cùng kỳ dị ở lối vào chính của nhà thờ này.

Cả một bức tường toàn mật mã, ông trầm ngâm, mắt nhìn hình in nổi bật trên các phiến kim loại nguyên khối sáng bóng. Nhô ra khỏi bề mặt là hơn tám nghìn chữ cái ba chiều rập nổi trên chất đồng. Các chữ cái chạy thành những hàng ngang, tạo ra cả một mảng lớn văn tự không hề có sự tách biệt rõ ràng giữa các từ. Mặc dù Langdon biết nội dung là một mô tả về cảnh chịu khổ hình của Đức Chúa viết bằng tiếng Catalan, nhưng có vẻ nó gần với một bộ khóa mật mã của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ hơn.

Chả trách nơi này lại gợi cảm hứng cho các thuyết âm mưu.

Ánh mắt Langdon di chuyển lên trên, leo lên phần mặt tiền chủ đề chịu khổ hình đầy chất hăm dọa, nơi cả một đám tượng điêu khắc gầy gò, hốc hác của nghệ sĩ Josep Maria Subirachs trừng trừng nhìn xuống, nổi bật là hình Chúa Jesus gầy đến hãi hùng bị treo lơ lửng trên cây thánh giá được bố trí đổ nghiêng về đằng trước, tạo ra hiệu ứng sợ hãi rằng nó sắp đổ ập xuống đầu các vị khách vừa tới.

Bên trái Langdon, một bức điêu khắc hắc ám nữa mô tả Judas phản bội Jesus bằng một nụ hôn. Hình điêu khắc này, khá lạ lùng, đi kèm với một hệ thống các con số chạm khắc – một “ma phương” toán học. Edmond từng kể với Langdon rằng “hằng số huyễn phương” với giá trị 33 của ô vuông này thực tế là một chứng cứ kín đáo cho thấy thái độ sùng kính có tính chất ngoại giáo của Hội Tam Điểm dành cho Kiến trúc sư Vĩ đại của Vũ trụ – một vị thần toàn năng với những bí mật được cho là chỉ hé lộ với những người đạt đến cấp độ 33 trong Hội.

“Một câu chuyện vui,” Langdon cười đáp, “nhưng Jesus vừa hay ba mươi ba tuổi vào thời điểm chịu khổ hình là một cách giải thích chắc chắn hơn đấy.”

Khi họ đến gần lối vào, Langdon nhăn mặt nhìn cái phần trang trí kinh khủng nhất của nhà thờ – một bức tượng Jesus khổng lồ, bị trói chặt vào một cây cột bằng thừng. Ông nhanh chóng chuyển ánh nhìn tới dòng chữ khắc phía trên cánh cửa – hai chữ cái Hy Lạp – alpha và omega.

“Mở đầu và kết thúc,” Ambra thì thầm, mắt cũng nhìn các mẫu tự. “Rất Edmond.”

Langdon gật đầu, hiểu ngay ý nàng. Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đang đi về đâu?

Đức cha Beña mở một cánh cửa nhỏ trên bức tường có các mẫu tự bằng đồng, và cả nhóm bước vào, kể cả hai đặc vụ Cận vệ. Đức cha Beña đóng cửa lại sau lưng họ.

Im lặng.

Bóng tối.

Ở đó, phía đầu Đông Nam của cung thờ bên, Đức cha Beña chia sẻ với họ một câu chuyện khiến người ta sửng sốt. Ông kể lại việc Kirsch tìm đến ông và đề nghị có một khoản quyên góp lớn cho Sagrada Família đổi lại việc nhà thờ đồng ý trưng bày bản thảo có minh họa của Blake trong hầm mộ gần mộ Gaudí.

Ngay trung tâm nhà thờ này, Langdon nghĩ, sự tò mò của ông càng bị kích thích.

“Edmond có nói tại sao anh ấy lại muốn cha làm vậy không?” Ambra hỏi.

Đức cha Beña gật đầu. “Anh ta bảo ta rằng đam mê cả đời của anh ta với nghệ thuật của Gaudí đến từ người mẹ quá cố của anh ta, người cũng rất ngưỡng mộ tác phẩm của William Blake. Kirsch nói anh ta muốn đặt tập sách của Blake gần mộ của Gaudí như một lễ vật dâng lên người mẹ quá cố của mình. Với ta có vẻ việc đó không hại gì.”

Edmond chưa bao giờ đề cập việc mẹ cậu ấy thích Gaudí, Langdon nghĩ thầm, cảm thấy bối rối. Hơn nữa, bà Paloma Kirsch đã mất trong một nhà tu kín, và dường như không chắc là một nữ tu Tây Ban Nha lại ngưỡng mộ một thi sĩ Anh quốc không chính thống. Toàn bộ câu chuyện này có vẻ giống một sự phóng đại.

“Nhưng,” Đức cha Beña nói tiếp, “ta cảm thấy Kirsch có thể đang khổ sở trong một cuộc khủng hoảng tinh thần… và có lẽ có những vấn đề sức khỏe gì đó nữa.”

“Lời chú giải phía sau tấm thẻ này,” Langdon ngắt lời, giơ thẻ lên, “nói rằng cuốn sách của Blake phải được trưng bày theo cách riêng, mở đúng trang 163 phải không ạ?”

“Đúng, chính xác là thế.”

Langdon cảm thấy mạch đập rộn lên. “Cha có thể cho con biết trên trang đó là bài thơ nào không?”

Đức cha Beña lắc đầu. “Trang đó không có bài thơ nào cả.”

“Sao cơ ạ?!”

“Cuốn sách là tuyển tập của Blake – các tác phẩm nghệ thuật và tranh vẽ của ông ấy. Trang 163 là một hình minh họa.”

Langdon nhìn Ambra lo lắng. Chúng ta cần dòng thơ bốn mươi bảy mẫu tự – không phải một hình minh họa!

“Thưa cha,” Ambra nói với Beña. “Liệu chúng con có thể xem được ngay không?”

Vị tu sĩ ngần ngừ một lát, nhưng rõ ràng nghĩ không nên từ chối hoàng hậu tương lai. “Hầm mộ ở lối này,” ông nói, dẫn họ đi xuống cung thờ bên tới trung tâm nhà thờ. Hai đặc vụ Cận vệ Hoàng gia theo ngay sau họ.

“Ta phải thừa nhận,” Đức cha Beña nói, “ta rất do dự khi chấp thuận số tiền từ một người vô thần công khai như vậy, nhưng đề nghị của anh ta muốn trưng bày hình ảnh minh họa của Blake mà mẹ anh ta yêu thích dường như vô hại với ta – đặc biệt nó lại là một hình ảnh về Chúa.”

Langdon nghĩ mình nghe nhầm. “Cha vừa nói Edmond đề nghị cha trưng hình ảnh của Chúa à?”

Đức cha Beña gật đầu. “Ta cảm thấy anh ta bị bệnh và có lẽ đây là cách anh ta cố gắng sửa chữa lại cả một đời đối lập với tôn giáo.” Ông ngừng lại, lắc đầu. “Dù vậy, sau khi xem buổi thuyết trình của anh ta tối nay, ta phải thừa nhận rằng ta không biết nên nghĩ gì.”

Langdon cố gắng hình dung xem Edmond có thể muốn trưng hình nào trong vô số minh họa về Chúa của Blake.

Khi tất cả di chuyển vào điện thờ chính, Langdon cảm thấy như thể mình đang ngắm không gian này lần đầu tiên. Mặc dù đã tới thăm Sagrada Família nhiều lần vào những giai đoạn xây dựng khác nhau của công trình, ông vẫn luôn tới vào ban ngày, khi mặt trời Tây Ban Nha rọi qua những ô kính màu, tạo nên những gam màu sặc sỡ và hút ánh mắt hướng lên trên, lên trên mãi, tới phần tán mái vòm dường như không trọng lượng.

Ban đêm, đây là một thế giới nặng nề hơn.

Khoảng rừng cây lốm đốm ánh nắng của vương cung thánh đường biến mất, chuyển hóa thành một khu rừng rậm lúc nửa đêm toàn bóng râm và khoảng tối – một khu u ám toàn những cột trụ có sọc duỗi dài lên trời thành một khoảng rỗng đầy hung hiểm.

“Chú ý bước chân nhé,” vị tu sĩ nói. “Chúng ta tiết kiệm tiền ở những chỗ có thể.”

Langdon biết, việc chiếu sáng cho những nhà thờ châu Âu đồ sộ thế này tiêu tốn cả một đống tiền, nhưng thiết bị chiếu sáng rất tiết kiệm ở đây vẫn soi rõ đường đi. Một trong những thử thách của một mặt bằng rộng gần năm nghìn sáu trăm mét vuông.

Khi họ tới chính điện trung tâm và rẽ trái, Langdon chăm chú nhìn phần sàn thực hiện nghi lễ được tôn cao phía trước. Bàn thờ là một chiếc bàn giản tiện đến mức tối thiểu đầy chất siêu hiện đại được giới hạn bằng hai cụm đàn ống lấp lánh. Cách bàn thờ bốn hoặc năm mét phía trên có treo bức trướng đặc biệt của nhà thờ – một kết cấu trần bằng vải treo lơ lửng hay là “tán nghi thức” – một biểu tượng của sự tôn kính lấy cảm hứng từ những tán dù nghi lễ đặt trên cán để tạo bóng râm cho vua chúa.

Tác giả: