Đi kèm với phần trưng bày là những dòng chữ khiêm nhường của kiến trúc sư:
Chẳng hề có gì được phát minh cả, bởi nó đã được viết ra trong tự nhiên từ trước.
Tính căn nguyên bao gồm việc trở về với nguồn cội.
ANTONI GAUDÍ
Langdon đưa mắt nhìn một lượt hành lang khung vòm uốn lượn và một lần nữa lại cảm thấy như mình đang đứng bên trong một sinh vật sống.
Một căn nhà hoàn hảo cho Edmond, ông quả quyết. Nghệ thuật lấy cảm hứng từ khoa học.
Khi Langdon đi theo khúc cong đầu tiên trong đường hầm quanh co này, không gian mở rộng ra, và những bóng đèn cảm ứng chuyển động sáng bừng lên. Ánh mắt ông lập tức bị hút tới một hộp trưng bày bằng kính rất lớn ngay giữa hành lang.
Một mô hình xích treo, ông nghĩ, luôn cảm thấy ngạc nhiên trước nguyên mẫu khéo léo này của Gaudí. “Xích treo” là thuật ngữ kiến trúc chỉ đoạn cong hình thành bởi một sợi dây treo hờ giữa hai điểm cố định – như một chiếc võng hay sợi dây bằng nhung lơ lửng giữa hai cột chống trong một nhà hát.
Trong mô hình xích treo trước mặt Langdon, hàng chục mắt xích được treo hờ trên đỉnh hòm – tạo thành những đoạn dài thõng xuống và sau đó chạy ngược lên để tạo thành những hình chữ U treo hờ. Vì sức căng do lực hấp dẫn là đối lực của sức nén lực hấp dẫn, Gaudí có thể nghiên cứu ra hình dạng chính xác của một dây xích khi treo tự nhiên dưới sức nặng của chính nó, và ông có thể bắt chước hình dạng đó để giải quyết những thách thức về mặt kiến trúc của sức nén lực hấp dẫn.
Nhưng nó cần có một chiếc gương thần, Langdon trầm ngâm, di chuyển về phía hòm trưng bày. Đúng như dự đoán, đáy hòm là một tấm gương, và khi ông ngó xuống hình phản chiếu, ông nhìn thấy một hiệu ứng kỳ diệu. Toàn bộ mô hình quay lộn ngược – và các thòng lọng treo trở thành những ngọn tháp cao vút.
Trong trường hợp này, Langdon nhận ra rằng mình đang nhìn khung cảnh đảo ngược của Vương cung thánh đường Sagrada Família sừng sững của Gaudí, với những ngọn tháp thoai thoải có lẽ được thiết kế sử dụng mô hình này.
Đi vội xuôi theo hành lang, Langdon thấy mình ở trong một không gian phòng ngủ rất trang nhã với một chiếc giường bốn cọc cổ, một tủ đứng bằng gỗ anh đào, và một chiếc tủ ngăn kéo có chạm khảm. Tường được trang trí bằng những phác thảo thiết kế của Gaudí, mà Langdon nhận ra là thêm một phần trưng bày nữa của bảo tàng.
Tác phẩm nghệ thuật duy nhất trong phòng dường như được đặt thêm vào là một câu trích dẫn được viết rất to treo phía trên giường của Edmond. Langdon đọc ba từ đầu tiên và nhận ngay ra nguồn gốc xuất xứ.
Chúa đã chết. Chúa vẫn chết. Và chúng ta đã giết ngài. Chúng ta sẽ an ủi bản thân mình, những kẻ giết chết những kẻ sát nhân, như thế nào đây?
NIETZSCHE
“Chúa đã chết” là ba từ nổi tiếng nhất do Friedrich Nietzsche, triết gia vô thần Đức nổi tiếng thế kỷ XIX viết ra. Nietzsche khét tiếng với những chỉ trích gay gắt về tôn giáo và cả những suy nghĩ của ông về khoa học – đặc biệt là sự tiến hóa của Darwin – mà ông tin đã đưa con người tới bờ vực của thuyết hư vô phủ nhận mọi quy tắc đạo đức và tôn giáo, một sự nhận thức cho rằng cuộc sống chẳng hề có ý nghĩa gì, chẳng có mục đích cao cả hơn và chẳng đưa ra bằng chứng trực tiếp nào về sự tồn tại của Chúa.
Nhìn câu trích dẫn phía trên chiếc giường, Langdon tự hỏi phải chăng Edmond, với tất cả sự lớn tiếng bài tôn giáo của mình, có thể đang phải vật lộn với chính vai trò của mình trong việc cố giải thoát thế giới khỏi Chúa.
Câu trích của Nietzsche, theo Langdon còn nhớ, kết thúc bằng những lời này: “Có phải tầm vóc lớn lao của việc làm này không hề quá lớn với chúng ta? Lẽ nào bản thân chúng ta không được trở thành các vị chúa đơn giản vì xứng đáng vậy?”
Ý tưởng táo bạo này – rằng con người trở thành Chúa để giết chết Chúa – chính là cốt lõi tư duy của Nietzsche, và có lẽ, theo Langdon nhận thấy, phần nào giải thích những phức cảm về Chúa lại xuất hiện ở nhiều thiên tài công nghệ tiên phong như Edmond đến vậy. Những người tẩy bỏ Chúa… phải làm thần thánh.
Khi Langdon suy ngẫm về quan niệm này, ông chợt ngộ ra điều thứ hai.
Nietzsche không chỉ là một triết gia – ông ấy còn là một thi sĩ!
Chính Langdon sở hữu The Peacock and the Buffalo (Công và Trâu) của Nietzsche, một tập hợp gồm hai trăm bảy mươi lăm bài thơ và cách ngôn nêu ra những suy nghĩ về Chúa, cái chết và tư duy con người.
Langdon nhanh chóng đếm số mẫu tự trong câu trích được đóng khung. Không khớp, nhưng trong ông trào lên những hy vọng. Có phải Nietzsche chính là thi sĩ của dòng thơ bọn ta đang tìm không? Nếu vậy, bọn ta sẽ phải tìm một tập thơ của Nietzsche trong văn phòng của Edmond chăng? Dù thế nào, Langdon cũng sẽ đề nghị Winston truy cập vào một sưu tập trực tuyến các bài thơ của Nietzsche và rà tất cả để tìm ra dòng thơ có bốn mươi bảy mẫu tự.
Háo hức quay lại chỗ Ambra để chia sẻ suy nghĩ của mình, Langdon vội vã đi qua phòng ngủ để vào nhà vệ sinh xuất hiện phía trước.
Lúc ông bước vào, các bóng đèn bên trong sáng lên, cho thấy một phòng tắm được trang trí rất lịch sự với một bồn rửa có bệ, một bộ vòi hoa sen đứng rời và một bồn vệ sinh.
Mắt Langdon lập tức bị hút tới một chiếc bàn cổ thấp ngổn ngang đồ dùng nhà tắm và vật dụng cá nhân. Khi ông nhìn thấy những thứ trên bàn, ông hít thật mạnh và lùi lại một bước.
Ôi Chúa ơi. Edmond… không.
Chiếc bàn trước mặt ông trông như một phòng thí nghiệm thuốc vụng trộm – những ống bơm tiêm đã sử dụng, những lọ thuốc, những viên thuốc vung vãi và thậm chí cả miếng giẻ dính máu.
Tim Langdon trĩu xuống.
Edmond đang sử dụng ma túy ư?
Langdon biết rằng nghiện hóa chất đã trở nên phổ biến thời nay, thậm chí trong giới giàu có và nổi tiếng. Giờ heroin còn rẻ hơn cả bia và người ta dùng các loại thuốc giảm đau có gốc thuốc phiện như thể đó là ibuprofen* vậy. (ibuprofen là thuốc giảm đau và kháng viêm (công thức: C13H18O2) không chứa steroid, thường dùng điều trị viêm khớp.)
Nghiện ngập chắc chắn lý giải cho việc sụt cân của cậu ấy gần đây, Langdon nghĩ, tự hỏi phải chăng Edmond đang vờ “ăn kiêng” chỉ để cố che giấu tình trạng gầy gò và đôi mắt trũng sâu của mình.
Langdon bước tới bên bàn và nhặt một cái lọ lên, đọc nhãn toa thuốc, đinh ninh tìm được một chất thuốc chứa thuốc phiện quen thuộc như OxyContin hoặc Percocet.
Thay vào đó, ông thấy: Docetaxel.
Bối rối, ông kiểm tra lọ khác: Gemcitabine.
Mấy thứ này là gì nhỉ? Ông băn khoăn, kiểm tra tiếp lọ thứ ba: Fluorouracil.
Langdon sững sờ. Ông đã nghe nói đến Fluorouracil qua một đồng nghiệp ở Harvard, và ông cảm thấy một nỗi kinh hãi đột ngột. Chỉ một khắc sau, ông nhận ra một cuốn sách mỏng nằm giữa những cái lọ. Tiêu đề là “Liệu trường chay có làm chậm ung thư tụy không?”
Quai hàm Langdon như rớt xuống khi tiếp nhận sự thật này.
Edmond không phải là một kẻ nghiện ma túy.
Anh đã âm thầm chiến đấu với một căn bệnh ung thư chết người.
CHƯƠNG 53
Ambra Vidal đứng trong ánh sáng dìu dịu của căn hộ tầng áp mái và đưa mắt nhìn những hàng sách dọc theo tường thư viện của Edmond.
Bộ sưu tập của anh ấy còn lớn hơn mình nhớ.
Edmond đã cải tạo một khu vực rộng rãi của phần hành lang uốn cong thành một thư viện ấn tượng bằng cách lắp đặt các giá sách giữa các trụ dọc đỡ các vòm cuốn của Gaudí. Thư viện của anh rộng đến bất ngờ và có lượng sách khá lớn, đặc biệt nếu xét đến việc Edmond được cho là có kế hoạch ở lại đây chỉ hai năm.
Giống như là anh ấy chuyển đến ở hẳn vậy.
Nhìn những giá sách chật cứng, Ambra nhận ra rằng việc xác định dòng thơ yêu thích của Edmond sẽ tốn nhiều thời gian hơn dự tính. Trong lúc tiếp tục đi dọc các giá sách, mắt nhìn các gác sách, nàng chẳng thấy gì ngoài những bộ sách khoa học về vũ trụ học, ý thức và trí thông minh nhân tạo:
BỨC TRANH LỚN
NHỮNG SỨC MẠNH CỦA THIÊN NHIÊN
CỘI NGUỒN CỦA NHẬN THỨC
HỆ SINH HỌC CỦA NIỀM TIN
CÁC THUẬT TOÁN THÔNG MINH
PHÁT MINH CUỐI CÙNG CỦA CHÚNG TA
Nàng đi đến cuối một khu vực và bước vòng qua một khung sườn kiến trúc để sang khu vực giá sách tiếp theo. Ở đây, nàng tìm thấy rất nhiều chủ đề khoa học – nhiệt động học, hóa học căn bản và tâm lý học.
Không hề có thơ ca.
Nhận ra Winston vẫn im lặng cho đến giờ, Ambra rút điện thoại di động của Kirsch ra. “Winston? Anh vẫn kết nối chứ?”
“Tôi đây,” giọng nói nhấn nhá của anh ta vang lên.
“Có thật Edmond đọc toàn bộ số sách trong thư viện này không?”
“Tôi tin là đúng vậy,” Winston trả lời. “Ông ấy là người rất ham đọc và gọi thư viện này là ‘căn phòng chiến tích kiến thức’ của mình.”
“Mà liệu có thể là có một khu vực thi phú ở đây không nhỉ?”
“Những tiêu đề duy nhất mà tôi biết là các tập sách người thật việc thật mà tôi được đề nghị đọc bằng định dạng sách điện tử để Edmond và tôi có thể thảo luận nội dung – tôi ngờ rằng đó là một bài tập cho phần giáo dục của tôi hơn là cho ông ấy. Rất tiếc, tôi không có ghi lại mục lục toàn bộ tập hợp này, cho nên cách duy nhất cô có thể tìm được những gì cô đang tìm kiếm là tìm trên thực tế.”
“Tôi hiểu.”
“Trong lúc cô tìm, có một điều mà tôi nghĩ có thể cô quan tâm – tin đặc biệt từ Madrid liên quan đến hôn phu của cô, Hoàng tử Julián.”
“Có chuyện gì rồi?” Ambra gặng hỏi, dừng sững lại. Cảm xúc của nàng vẫn rối bời với chuyện rất có khả năng Julián can dự vào vụ ám sát Kirsch. Chẳng hề có bằng chứng, nàng tự nhủ. Chẳng có gì khẳng định rằng Julián giúp đưa tên Ávila vào danh sách khách mời.
“Vừa có tin,” Winston nói, “rằng một cuộc biểu tình đang hình thành bên ngoài Hoàng cung. Bằng chứng tiếp tục cho thấy vụ ám sát Edmond do Giám mục Valdespino bí mật dàn dựng, có lẽ với sự hỗ trợ của ai đó trong cung, thậm chí có lẽ là Hoàng tử. Những người hâm mộ Kirsch hiện đang lập hàng rào bao vây. Cô xem nhé.”