“Ông nhìn thấy chứ?” Marco hỏi, chỉ về phía xa ngang qua một cánh đồng bỏ hoang.
Ávila chẳng thấy gì cả. Hoặc tay huấn luyện viên trẻ tuổi đang gặp ảo giác hoặc mắt Ávila đã lão hóa.
“Không thấy ngạc nhiên sao?” Marco nói.
Ávila nheo mắt trước ánh mặt trời, và cuối cùng nhìn thấy một khối thẫm màu nổi lên trong khung cảnh. Khi họ lại gần hơn, mắt ông ta mở to đầy kinh ngạc.
Đó là… một nhà thờ lớn ư?
Quy mô của công trình trông như thứ gì đó ông ta kỳ vọng gặp ở Madrid hay Paris. Ávila đã sống ở Seville cả đời nhưng chưa hề biết về một nhà thờ chính tòa ở đây ngay chính giữa nơi xa xôi hẻo lánh này. Họ càng lái xe lại gần, quần thể ấy xuất hiện càng ấn tượng, những bức tường xi măng đồ sộ của nó thể hiện cấp độ an ninh mà Ávila chỉ nhìn thấy ở Vatican City.
Marco rời đường chính và lái xe theo một đường dẫn ngắn về phía nhà thờ, đến gần một cánh cổng sắt sừng sững chắn đường họ. Khi họ dừng lại, Marco móc một tấm thẻ ép trong ngăn chứa đồ và đặt lên bảng điều khiển.
Một nhân viên an ninh tiến lại, nhìn tấm thẻ, sau đó nhìn vào xe, mỉm cười rất tươi khi anh ta nhìn thấy Marco.
“Bienvenidos,” anh chàng bảo vệ nói. “¿Qué tal, Marco?” (Bienvenidos ¿Qué tal, Marco? nghĩa là Xin chào. Anh bạn thế nào, Marco?)
Hai người bắt tay và Marco giới thiệu Đô đốc Ávila.
“Ha venido a conocer al papa,” Marco nói với anh chàng bảo vệ. Ông ấy đến gặp giáo hoàng.
Anh chàng bảo vệ gật đầu, tỏ ý ngưỡng mộ những tấm huân chương trên bộ đồng phục của Ávila và vẫy tay cho họ đi tiếp. Cánh cổng đồ sộ mở ra, Ávila cảm thấy như mình đang tiến vào một lâu đài thời trung cổ.
Tòa nhà thờ lớn kiểu Gothic cao vút xuất hiện trước mặt họ có tới tám ngọn tháp, mỗi ngọn đều có một tháp chuông ba tầng. Một nhóm ba vòm cuốn đồ sộ tạo thành thân chính của kết cấu, với ngoại thất được tạo thành từ đá trắng và nâu thẫm, tạo cho nó cảm giác hiện đại khác thường.
Ávila hạ ánh mắt xuống đường dẫn, được chia nhỏ thành ba phần lòng đường song song, hai bên mỗi đường đều trồng cọ rất cao. Trước sự ngạc nhiên của ông ta, toàn bộ khu vực này chật cứng các loại phương tiện đỗ lại – có đến hàng trăm chiếc – những chiếc xe mui kín sang trọng, những chiếc xe buýt ọp ẹp, những chiếc xe đạp máy bùn đất bê bết… tất cả mọi thứ có thể hình dung được.
Marco đi qua tất cả, lái xe thẳng tới sân trước nhà thờ, nơi một nhân viên an ninh nhìn thấy họ, xem đồng hồ của anh ta và vẫy tay cho họ vào một vị trí đỗ xe còn trống rõ ràng được dành sẵn cho họ.
“Chúng ta hơi muộn một chút,” Marco nói. “Chúng ta cần nhanh vào trong.”
Ávila định đáp lời nhưng mọi lời đều tắc nghẹn trong cổ họng.
Ông ta vừa nhìn thấy tấm biển phía trước nhà thờ: IGLESIA CATÓLICA PALMARIANA (IGLESIA CATÓLICA PALMARIANA nghĩa là Giáo hội Công giáo Palmaria.)
Chúa ơi! Ávila cảm thấy mình chùn lại. Mình đã nghe nói đến giáo hội này!
Ông ta quay sang Marco, cố gắng kiểm soát tim mình lúc này đang đập thình thịch. “Đây là nhà thờ của anh à, Marco?” Ávila cố gắng không tỏ ra cảnh giác. “Anh là một… tín đồ Palmaria phải không?”
Marco mỉm cười. “Ông nói đến từ đó cứ như nó là một thứ bệnh dịch gì đó vậy. Tôi chỉ là một người Công giáo mộ đạo tin rằng La Mã đã lầm đường lạc lối thôi.”
Ávila lại ngước mắt nhìn nhà thờ. Lời tuyên bố lạ lùng của Marco về việc biết giáo hoàng đột nhiên thành dễ hiểu. Giáo hoàng ở đây tại Tây Ban Nha.
Một vài năm trước, hãng truyền hình Canal Sur đã phát sóng một bộ phim tài liệu tựa đề La Iglesia Oscura, mục đích là phơi bày một số bí mật của Giáo hội Palmaria. Ávila sững sờ khi biết đến sự tồn tại của giáo hội lạ lùng này, đây là còn chưa đề cập đến ảnh hưởng và giáo đoàn ngày càng tăng của họ.
Theo hiểu biết, Giáo hội Palmaria được thành lập sau khi một số người dân địa phương tuyên bố đã chứng kiến một loạt cảnh tượng bí ẩn trên một cách đồng gần đó. Người ta cho là Đức mẹ Đồng trinh Mary xuất hiện trước mặt họ và cảnh báo rằng Giáo hội Công giáo đầy rẫy “quan điểm dị giáo của chủ nghĩa hiện đại” và rằng tín điều thật sự cần được bảo vệ.
Đức mẹ Đồng trinh Mary thúc giục những người Palmaria thành lập một giáo hội thay thế và lên án đương kim giáo hoàng tại Rome là giáo hoàng mạo xưng. Lời cáo buộc cho rằng giáo hoàng ở Vatican không phải là đức thánh cha hợp lệ được biết đến như là Tông tòa khuyết xuất luận* – một tín điều cho rằng “chỗ ngồi” của Thánh Peter đúng là “bỏ trống”. (Tông tòa khuyết xuất luận, Sedevacantism, là lập trường của một nhóm thiểu số tín đồ Công giáo truyền thống cho rằng người hiện nắm giữ ngôi vị Giáo hoàng không phải là giáo hoàng đích thực do việc giáo hội dòng chính tán thành nhiều quan điểm dị giáo của chủ nghĩa hiện đại và rằng, do thiếu một giáo hoàng hợp lệ, nên tòa thánh vẫn bỏ trống kể từ khi Giáo hoàng Pius XII tạ thế năm 1958. Thuật ngữ “sedevacantism” xuất phát từ cụm từ Latin sede vacante, nghĩa là “với chiếc ghế [của Thánh Peter] bỏ trống”.)
Hơn nữa, những người Palmaria tuyên bố có bằng chứng cho thấy giáo hoàng “đích thực” thực tế là người sáng lập của họ – một người có tên Clemente Domínguez y Gómez, tự lấy hiệu là Giáo hoàng Gregory XVII. Dưới quyền Giáo hoàng Gregory – hay “giáo hoàng đối cử”, theo quan điểm của những người Công giáo dòng chính – Giáo hội Palmaria phát triển không ngừng. Năm 2005, khi Giáo hoàng Gregory qua đời trong lúc đang chủ trì một buổi lễ mi-xa Phục sinh, những người ủng hộ ông xưng tụng thời điểm ông qua đời như là một dấu hiệu nhiệm mầu từ thượng giới, khẳng định rằng người này thực tế có sự gắn kết trực tiếp với Chúa.
Lúc này, khi Ávila chăm chú nhìn lên tòa nhà thờ đồ sộ, ông ta không thể không nhìn nhận tòa nhà thật sự đầy hung hiểm.
Cho dù giáo hoàng đối cử hiện tại có là ai đi nữa thì mình gặp ông ấy cũng chẳng ích gì.
Ngoài những lời chỉ trích đối với những tuyên bố táo tợn của họ về ngôi vị giáo hoàng, Giáo hội Palmaria còn bị cáo buộc tẩy não, hăm dọa và thậm chí chịu trách nhiệm về một vài cái chết bí ẩn, trong đó có trường hợp thành viên giáo đoàn Bridget Crosbie, người mà theo lời các luật sư của gia đình bà, đã “không thể thoát khỏi” một trong những giáo đoàn Palmaria ở Ireland.
Ávila không muốn mất lịch sự với người bạn mới của mình, nhưng đây hoàn toàn không phải những gì ông ta mong đợi từ chuyến đi hôm nay. “Marco,” ông ta nói kèm tiếng thở dài xin lỗi, “Tôi xin lỗi, nhưng tôi không nghĩ tôi làm được việc này.”
“Tôi đã có cảm giác ông sẽ nói vậy,” Marco trả lời, dường như chẳng chút lúng túng. “Và tôi thừa nhận, tôi cũng đã có phản ứng y hệt khi lần đầu tôi đến đây. Tôi cũng đã nghe tất cả những điều đồn thổi và xì xầm, nhưng tôi có thể quả quyết với ông, đó chẳng có gì hơn một chiến dịch bôi nhọ do Vatican chủ trì.”
Cậu lại còn trách họ ư? Ávila thắc mắc. Giáo hội của các cậu tuyên bố họ là không hợp pháp mà!
“Rome cần một lý do để rút phép thông công chúng tôi, cho nên họ bịa ra những điều dối trá. Trong nhiều năm, Vatican lan truyền những thông tin sai lệch về tín đồ Palmaria.”
Ávila đánh giá tòa nhà thờ hoành tráng ở giữa nơi đồng không mông quạnh. Ở nó có gì đó ông ta thấy rất lạ. “Tôi thấy hơi khó hiểu,” ông ta nói. “Nếu các anh không có quan hệ gì với Vatican, thì tiền của các anh từ đâu mà ra?”
Marco mỉm cười. “Ông sẽ ngạc nhiên trước số lượng những tín đồ bí mật mà Palmaria có được ngay trong giới tu sĩ Công giáo. Có rất nhiều giáo xứ Công giáo bảo thủ ở Tây Ban Nha này không tán thành những thay đổi tự do bắt nguồn từ Rome, và họ âm thầm rót tiền cho những nhà thờ như của chúng tôi, nơi các giá trị truyền thống được đề cao.”
Câu trả lời thật bất ngờ, nhưng Ávila thấy đúng. Ông ta cũng cảm thấy tình trạng ly giáo ngày càng tăng ngay trong Giáo hội Công giáo – một sự rạn nứt giữa những người tin Giáo hội cần hiện đại hóa hoặc là tiêu vong và những người tin mục đích thật sự của Giáo hội là kiên định trước một thế giới đang tiến triển.
“Đức Thánh cha hiện nay là một người xuất chúng,” Marco nói. “Tôi đã kể với ngài câu chuyện của ông, và ngài nói ngài rất vinh hạnh chào đón một sĩ quan lập nhiều thành tích tới nhà thờ của chúng tôi, và đích thân gặp ông sau buổi lễ hôm nay. Như những người tiền nhiệm của ngài, ngài từng có thời gian trong quân đội trước khi tìm tới Chúa, và ngài hiểu những gì ông trải qua. Tôi thật sự nghĩ quan điểm của ngài có thể giúp ông tìm được sự bình yên.”
Marco mở cửa để ra khỏi xe, còn Ávila thì không tài nào nhúc nhích được. Ông ta chỉ biết ngồi nguyên tại chỗ, trân trân nhìn công trình đồ sộ, cảm thấy có lỗi vì đã nuôi một định kiến mù quáng với những con người này. Công bằng thì ông ta chưa biết gì về Giáo hội Palmaria ngoại trừ những lời đồn đại, và không phải là Vatican không hề có những bê bối. Hơn nữa, giáo hội của chính Ávila đã chẳng giúp gì được cho ông ta sau vụ tấn công. Hãy tha thứ cho kẻ thù của con, nữ tu đã nói với ông ta như vậy. Chìa nốt má kia ra.
“Luis, nghe tôi này,” Marco thì thào. “Tôi nhận thấy mình đã có phần gài bẫy ông đi đến đây, nhưng việc đó có những ý định tốt đẹp… Tôi muốn ông gặp người này. Những ý tưởng của ông ấy đã thay đổi cuộc đời tôi rất mạnh mẽ. Sau khi tôi mất chân, tôi ở tình trạng như ông lúc này. Tôi muốn chết. Tôi chìm vào bóng tối và những lời của người này đã cho tôi một mục đích. Hãy tới và nghe ông ấy giảng đạo xem.”
Ávila ngập ngừng. “Tôi mừng cho anh, Marco. Nhưng tôi nghĩ tôi sẽ ổn với chính mình.”
“Ổn ư?” Gã thanh niên cười phá lên. “Một tuần trước, ông kê súng vào đầu và bóp cò! Ông không hề ổn, ông bạn của tôi ạ.”