Langdon định cảm ơn máy tính, nhưng Winston đã nói tiếp mà không cần lấy hơi. Ngôn từ tuôn ra từ Winston với tốc độ nhanh phi thường, như một cuốn sách thoại đang đọc với tốc độ được tăng lên.
“Nếu tôi có thể truy cập vào bài thuyết trình của Edmond,” Winston nói, “tôi sẽ làm ngay lập tức, nhưng như ngài đã nghe rồi, nó được lưu trong một máy chủ an ninh ở bên ngoài. Có vẻ như tất cả những gì chúng ta cần để công bố phát hiện của ông ấy cho thế giới là cái điện thoại thửa riêng và mật khẩu của ông ấy. Tôi đã tìm kiếm toàn bộ các tài liệu đã được xuất bản để tìm một câu thơ bốn mươi bảy mẫu tự, và rất tiếc là số lượng khả năng lên tới vài trăm nghìn, nếu không nói còn hơn nữa, tùy thuộc vào cách ngắt nghỉ các đoạn thơ. Hơn nữa, vì các giao diện của Edmond nói chung đều chặn người dùng sau một vài lần thử mật khẩu không đúng, nên không thể dùng giải pháp bạo lực phá*. Việc này khiến chúng ta chỉ còn một lựa chọn: chúng ta phải tìm mật khẩu của ông ấy bằng một cách khác. Tôi tán thành với cô Vidal rằng hai người phải ngay lập tức lọt vào nhà Edmond ở Barcelona. Về lý thì nếu ông ấy có một câu thơ yêu thích ông ấy sẽ có một cuốn sách với bài thơ đó, và thậm chí có khi còn làm nổi bật câu thơ yêu thích của mình bằng cách nào đó. Do đó, tôi tính toán có khả năng rất cao là Edmond muốn các vị tới Barcelona, tìm mật khẩu của mình và sử dụng nó để thực hiện công bố của ông ấy như kế hoạch. Thêm nữa, giờ tôi xác định rằng cuộc gọi điện thoại vào phút chót đề nghị cho Đô đốc Ávila vào danh sách khách mời thực tế xuất phát từ Hoàng cung ở Madrid, như cô Vidal kể. Vì lý do này, tôi quyết định chúng ta không thể tin các đặc vụ Cận vệ Hoàng gia và tôi sẽ nghĩ ra cách đánh lạc hướng họ và giúp các vị trốn thoát.” (giải pháp bạo lực phá, brute-force attack, là phương pháp tìm mật khẩu bằng cách thử tất cả các chuỗi mật khẩu có thể.)
Thật phi thường, có vẻ như Winston đã tìm được cách làm việc đó.
Lúc này, Langdon và Ambra đã tới được lối thoát khẩn cấp, nơi Langdon khẽ khàng mở cửa, đẩy Ambra đi qua và khép cửa lại sau lưng.
“Tốt lắm,” giọng Winston lại vang lên trong đầu Langdon. “Các vị đang ở trong buồng cầu thang.”
“Còn các đặc vụ Cận vệ?” Langdon hỏi.
“Cách xa lắm,” Winston đáp. “Hiện tôi đang ở trên mạng điện thoại cùng họ, giả vờ là một nhân viên an ninh của bảo tàng và hướng dẫn họ đi tới một phòng trưng bày ở tận đầu kia của tòa nhà.”
Siêu hạng, Langdon nghĩ, gật đầu trấn an Ambra. “Mọi việc đều ổn.”
“Hãy theo cầu thang xuống tầng trệt,” Winston nói, “và ra khỏi bảo tàng. Xin lưu ý, một khi các vị ra khỏi tòa nhà, tai nghe bảo tàng của ngài sẽ không kết nối với tôi nữa.”
Chết tiệt. Langdon còn chưa nghĩ ra chuyện đó. “Winston,” ông vội nói, “anh có biết rằng Edmond đã chia sẻ phát hiện của mình với một số lãnh đạo tôn giáo vào tuần trước không?”
“Chuyện đó không chắc lắm,” Winston đáp, “mặc dù phần giới thiệu của ông ấy tối nay chắc chắn ám chỉ rằng công việc của ông ấy có những hàm ẩn tôn giáo rất sâu sắc, vì thế có lẽ ông ấy muốn thảo luận những phát hiện của mình với những nhà lãnh đạo trong lĩnh vực đó?”
“Phải, tôi nghĩ vậy. Tuy nhiên, một người trong số họ là Giám mục Valdespino từ Madrid.”
“Hay đấy. Tôi thấy rất nhiều tài liệu tham khảo trên mạng có nói rằng ông ấy là cố vấn rất thân cận của vua Tây Ban Nha.”
“Phải, và còn một chuyện nữa,” Langdon nói. “Anh có biết rằng Edmond đã nhận được một thư thoại hăm dọa từ Valdespino sau cuộc gặp của họ không?”
“Tôi không biết. Chắc việc đó thực hiện trên đường dây riêng.”
“Edmond đã bật cho tôi nghe. Valdespino yêu cầu cậu ấy hủy buổi thuyết trình của mình và cũng cảnh báo rằng các giáo sĩ mà Edmond đã tham vấn đều đang cân nhắc về một công bố đi trước nhằm phá cậu ấy bằng cách nào đó trước khi cậu ấy công khai.” Langdon xuống cầu thang, để Ambra đi nhanh phía trước. Ông hạ giọng. “Anh có tìm thấy liên hệ nào giữa Valdespino và Đô đốc Ávila không?”
Winston ngừng vài giây. “Tôi không thấy có liên hệ trực tiếp nào, nhưng như thế không có nghĩa là không có. Nó chỉ có nghĩa là không có bằng chứng thôi.”
Họ đã xuống đến tầng trệt.
“Giáo sư, nếu tôi có thể…” Winston nói. “Từ các sự kiện tối nay, lô-gic cho thấy có những thế lực rất lớn định bưng bít phát hiện của Edmond. Xin nhớ rằng bài thuyết trình của ông ấy có nêu tên ngài là người có hiểu biết sâu giúp truyền cảm hứng cho đột phá của ông ấy, cho nên những kẻ thù của ông ấy có thể coi ngài là một đối tượng nguy hiểm chưa giải quyết được.”
Langdon chưa bao giờ nghĩ đến khả năng này và cảm thấy một mối nguy hiểm đột ngột khi ông xuống đến mặt đất. Ambra đã ở đó, gắng sức mở cánh cửa kim loại.
“Khi các vị thoát ra,” Winston nói, “các vị sẽ thấy mình ở trong một ngõ nhỏ. Di chuyển sang mé trái vòng qua tòa nhà và đi thẳng xuống phía sông. Từ đó, tôi sẽ sắp xếp phương tiện đi lại cho các vị tới địa điểm chúng ta đã thảo luận.”
BIO-EC346, Langdon nghĩ và giục Winston đưa họ tới đó. Nơi Edmond và mình dự định gặp nhau sau sự kiện. Cuối cùng, Langdon cũng đã giải mã được mật mã, nhận ra rằng BIO-EC346 hoàn toàn không phải một câu lạc bộ khoa học bí mật nào đó. Nó là cái gì đó trần tục hơn nhiều. Tuy nhiên, ông hy vọng nó sẽ là chìa khóa cho họ thoát khỏi Bilbao.
Nếu bọn ta có thể đến được đó mà không bị phát hiện…, ông nghĩ thầm, biết rằng sớm muộn gì khắp nơi cũng sẽ bị chặn đường. Bọn ta cần di chuyển nhanh.
Khi Langdon và Ambra bước qua ngưỡng cửa để hòa vào trời khuya lành lạnh, Langdon giật mình khi thấy thứ trông giống như những hột tràng hạt vương khắp mặt đất. Ông không có thời gian thắc mắc tại sao. Winston vẫn đang nói.
“Một khi các vị tới bờ sông,” giọng máy tính nói như ra lệnh, “đi thẳng tới cầu đi bộ bên dưới Cầu La Salve Bridge và đợi cho tới khi…”
Tai nghe của Langdon đột ngột toàn tín hiệu nhiễu đinh tai.
“Winston?” Langdon hét to. “Đợi cho tới khi… sao cơ?!”
Nhưng tiếng Winston đã tắt và cánh cửa kim loại vừa đóng sập sau lưng họ.
CHƯƠNG 29
Nhiều dặm về phía nam, ở ngoại ô Bilbao, một chiếc xe Uber mui kín vun vút chạy về phía nam trên Cao tốc AP-68 tới Madrid. Ở băng ghế sau, Đô đốc Ávila cởi bỏ chiếc áo khoác trắng cùng mũ hải quân của mình, tận hưởng cảm giác tự do trong khi ngả người ra sau và ngẫm nghĩ về việc trốn thoát quá đơn giản của mình.
Đúng như Nhiếp chính vương đã hứa.
Gần như ngay lập tức sau khi bước lên chiếc xe Uber, Ávila rút khẩu súng của mình và gí vào đầu người lái xe đang run cầm cập. Theo lệnh Ávila, người lái xe ném điện thoại thông minh của mình ra ngoài, cắt đứt mối liên hệ duy nhất từ phương tiện của anh ta với trụ sở chính của công ty.
Sau đó, Ávila lục ví người đàn ông, ghi nhớ địa chỉ nhà và tên vợ con anh ta. Làm như tôi bảo, Ávila bảo anh ta, nếu không gia đình anh sẽ chết. Các khớp xương của người đàn ông trắng nhợt trên vô lăng và Ávila biết mình đã có được một tài xế tận tụy cho buổi tối nay.
Giờ ta vô hình, Ávila nghĩ khi những chiếc xe cảnh sát lao vun vút qua theo hướng ngược lại, còi kêu inh ỏi.
Khi chiếc xe tăng tốc về phía nam, Ávila ngồi ổn định để có một chuyến đi dài, thưởng thức ánh hồi quang của phi vụ đầy kịch tính của mình. Ta phục vụ đại nghiệp thật ổn, ông ta nghĩ. Rồi ông ta liếc nhìn cái hình xăm trên bàn tay mình, nhận ra rằng khả năng bảo vệ của nó không còn cần thiết. Ít nhất lúc này.
Cảm thấy tự tin rằng người lái xe Uber đang hoảng sợ của mình sẽ tuân lệnh, Ávila hạ khẩu súng xuống. Khi chiếc xe phóng về phía Madrid, ông ta lại liếc mắt nhìn hai cái miếng dán trên kính chắn gió của chiếc xe.
Khả năng là bao nhiêu nhỉ? Ông ta nghĩ.
Miếng dán đầu tiên dễ đoán – biểu trưng của Uber. Tuy nhiên, miếng dán thứ hai chỉ có thể là một dấu hiệu từ trên cao.
Thập ác. Bây giờ, cái biểu tượng ấy đâu chả có – tín đồ Công giáo khắp châu Âu thể hiện sự đoàn kết với tân giáo hoàng, ca ngợi chủ trương tự do và hiện đại hóa Giáo hội của ngài.
Thật mỉa mai, Ávila nhận ra rằng người lái xe là người hâm mộ vị giáo hoàng tự do và việc nhận ra ấy khiến cho hành động gí súng vào anh ta trở thành một trải nghiệm gần như khoan khoái. Ávila thấy ghê tởm trước việc đám đông lười nhác tôn thờ tân giáo hoàng, người đang cho phép các tín đồ của Đức Chúa được tùy chọn từ một bàn ăn tự phục vụ gồm đủ các loại luật lệ của Chúa, quyết định xem quy tắc nào chấp nhận được với họ và quy tắc nào không. Gần như chỉ qua một đêm, ngay trong Vatican, những vấn đề như kiểm soát sinh, kết hôn đồng giới, nữ tu sĩ và nhiều vấn đề tự do khác đều được đặt lên bàn thảo luận. Truyền thống hai nghìn năm dường như sắp tan biến chỉ trong chớp mắt.
Rất may, vẫn có những người đấu tranh vì truyền thống.
Ávila nghe thấy những giai điệu của bài tụng ca Oriamendi* vang lên trong đầu. (bài tụng ca Oriamendi, Marcha de Oramendi hay Hành khúc Oriamendi, là bài ca của phong trào Carlist, một trào lưu chính trị ở Tây Ban Nha tìm cách lập ra một dòng tộc riêng của triều đại Bourbon, dòng dõi hậu duệ của Don Carlos, Bá tước xứ Molina (1788-1855), trên ngai vàng Tây Ban Nha. Khẩu hiệu của Phong trào là ‘God, Fatherland, King’ nghĩa là Thiên Chúa, Tổ quốc, Đức vua. Tên bài hát có nguồn gốc từ Trận Oriamendi nổ ra năm 1837. Lời ca khúc tiếng Tây Ban Nha viết năm 1908.)
Và ta vinh dự phục vụ họ.