Giờ thế giới có thể không bao giờ biết về những gì Edmond đã tìm được.
Langdon bỗng thấy nổi giận, tiếp theo là quyết tâm sắt đá.
Tôi sẽ làm mọi việc có thể để tìm ra kẻ nào chịu trách nhiệm về việc này. Tôi sẽ phát huy di sản của cậu, Edmond. Tôi sẽ tìm cách chia sẻ phát hiện của cậu với thế giới.
“Ông đã biết,” giọng người cận vệ rít lên, sát bên tai ông. “Ông định tiến tới bục như thể ông biết có chuyện sắp xảy ra.”
“Tôi… đã… được cảnh báo,” Langdon cố xoay xở, gần như không thở nổi.
“Kẻ nào cảnh báo?!”
Langdon cảm thấy cái tai nghe biến năng của mình bị vặn và lệch đi trên má. “Cái tai nghe trên mặt tôi… đó là một hướng dẫn viên tự động. Máy tính của Edmond Kirsch đã cảnh báo tôi. Nó phát hiện ra có điểm bất thường trong danh sách khách mời – một đô đốc về hưu thuộc hải quân Tây Ban Nha.”
Lúc này, đầu người cận vệ gần tai Langdon nên ông có thể nghe rõ tai nghe bộ đàm của người ấy sột soạt hoạt động. Giọng nói trong bộ đàm hổn hển và gấp gáp và dù tiếng Tây Ban Nha của Langdon lỗ mỗ nhưng ông vẫn nghe được đủ để giải mã cái tin không hay.
… el asesino ha huido…
Tên sát nhân đã trốn thoát.
… salida bloqueada…
Một lối ra đã bị bít lại.
… uniforme militar blanco… (uniforme militar blanco nghĩa là quân phục trắng.)
Khi mấy từ “quân phục” được nói ra, người cận vệ đè trên Langdon giảm bớt sức ép.
“¿Uniforme naval?” người đó hỏi lại đồng đội.
“Blanco… ¿Como de almirante?” (Blanco… ¿Como de almirante? nghĩa là Trắng…? Như là một đô đốc?)
Câu trả lời rất xác quyết.
Quân phục hải quân, Langdon nhận ra. Winston nói đúng.
Người cận vệ buông Langdon và rời khỏi ông. “Lật người lại đi.”
Langdon đau đớn vặn ngửa người và chống khuỷu tay ngồi dậy. Đầu ông quay mòng mòng còn ngực cảm thấy rất khó chịu.
“Chớ cử động,” người cận vệ nói.
Langdon không có ý định cử động, viên sĩ quan đứng phía trên nặng ngót nghét cả tạ toàn cơ bắp rắn chắc và đã thể hiện rằng anh ta hết sức nghiêm túc trong công việc của mình.
“¡Inmediatamente!, người cận vệ hét vào bộ đàm, tiếp đến là yêu cầu giới chức địa phương khẩn trương hỗ trợ và lập rào chắn quanh bảo tàng. (Inmediatamentel nghĩa là Ngay lập tức.)
… policía local… bloqueos de carretera… (policía local… bloqueos de carretera nghĩa là Cảnh sát địa phương lập rào chắn.)
Từ vị trí của mình trên sàn, Langdon nhìn thấy Ambra Vidal, vẫn đứng ở khu vực gần bức tường bên. Nàng gượng đứng lên, nhưng loạng choạng, và sụp phủ phục xuống.
Ai đó giúp cô ấy đi!
Nhưng người cận vệ lúc này đang hét vọng sang bên kia nhà vòm, có vẻ như không nhắm cụ thể vào ai cả. “¡Luces! ¡Y cobertura de movil!” Tôi cần ánh sáng và dịch vụ điện thoại!
Langdon đưa tay lên và nắn thẳng cái tai nghe biến năng trên mặt mình.
“Winston, anh còn đó chứ?”
Người cận vệ ngoảnh lại, nhìn Langdon đầy lạ lẫm.
“Tôi đây.” Giọng Winston vẫn bình thường.
“Winston, Edmond bị bắn. Chúng tôi cần bật đèn sáng trở lại ngay. Chúng tôi cần phục hồi dịch vụ di động. Anh có kiểm soát được việc đó không? Hay liên hệ được với người có thể xử lý được không?”
Vài giây sau, đèn trong nhà vòm đột ngột sáng lên, xóa nhòa ảo ảnh đồng cỏ dãi ánh trăng đầy huyền diệu và chiếu sáng một khoảng trống trải cỏ nhân tạo giờ vắng hoe và ngổn ngang những chiếc chăn bị bỏ lại.
Người cận vệ dường như giật mình trước quyền lực thấy rõ của Langdon. Một lúc sau, anh ta đưa tay và kéo Langdon đứng lên. Hai người đàn ông đối diện nhau trong ánh đèn sáng rõ.
Anh chàng đặc vụ cao, ngang ngửa Langdon, với mái đầu cắt gọn và thân hình cơ bắp bó chặt trong chiếc áo cộc màu xanh dương. Gương mặt anh ta xanh xao với những đường nét vừa phải làm tôn đôi mắt sắc bén lúc ấy đang tập trung vào Langdon như hai luồng la-de.
“Ông có trong video tối nay. Ông là Robert Langdon.”
“Phải. Edmond Kirsch là sinh viên và cũng là bạn của tôi.”
“Tôi là Đặc vụ Fonseca thuộc đội Cận vệ Hoàng gia,” anh ta nói bằng thứ tiếng Anh hoàn hảo. “Cho tôi biết làm sao ông biết về bộ quân phục hải quân.”
Langdon xoay về phía xác Edmond, nằm bất động trên thảm cỏ bên cạnh bục diễn thuyết. Ambra Vidal quỳ bên cạnh cái xác cùng với hai nhân viên an ninh của bảo tàng và một nhân viên y tế người đã ngừng việc cố gắng cứu sống anh ấy. Ambra nhẹ nhàng dùng một tấm chăn phủ lên cái xác.
Rõ ràng, Edmond đã ra đi.
Langdon cảm thấy buồn nôn, không tài nào rời mắt khỏi người bạn bị sát hại của mình.
“Chúng ta không giúp được ông ấy nữa,” người cận vệ nói. “Hãy nói tôi xem làm thế nào ông lại biết.”
Langdon đưa mắt trở lại người cận vệ, giọng nói của anh ta không hề có chỗ nào để gây hiểu nhầm cả. Đó là một mệnh lệnh.
Langdon nhanh chóng nhắc lại những gì Winston đã nói với ông – rằng chương trình hướng dẫn viên đã phát hiện một cái tai nghe của khách bị vứt bỏ và khi một nhân viên hướng dẫn tìm thấy cái tai nghe trong chỗ vứt rác, họ đã kiểm tra xem vị khách nào được giao cái tai nghe đó, và phát hoảng khi thấy rằng ông ta được ghi tên vào danh sách khách mời ở phút chót.
“Không thể được.” Người cận vệ nheo mắt. “Danh sách khách mời được khóa sổ hôm qua. Tất cả mọi người đều phải trải qua quá trình kiểm tra thông tin cơ bản.”
“Người này thì không,” giọng Winston rành rọt trong tai nghe của Langdon. “Tôi thấy lo lắng và rà lại tên khách rồi phát hiện ra ông ta là một cựu đô đốc hải quân Tây Ban Nha, bị sa thải vì nghiện rượu và căng thẳng hậu sang chấn trong một vụ tấn công khủng bố ở Seville năm năm trước.”
Langdon nói lại thông tin đó cho người cận vệ nghe.
“Vụ đánh bom nhà thờ lớn ư?” Người cận vệ trông đầy vẻ nghi ngờ.
“Hơn nữa,” Winston nói với Langdon, “tôi phát hiện ra viên sĩ quan chẳng có bất kỳ liên hệ gì với ngài Kirsch, điều đó khiến tôi băn khoăn, và vì thế tôi đã liên hệ với an ninh bảo tàng để bật tín hiệu báo động, nhưng không có thông tin thuyết phục hơn nên họ cho rằng chúng ta không nên làm hỏng sự kiện của Edmond – đặc biệt là trong lúc nó đang được truyền hình trực tiếp ra thế giới. Biết rằng Edmond đã mất rất nhiều công sức cho chương trình tối nay, nên lập luận của họ thuyết phục được tôi, và vì thế tôi lập tức liên hệ với ngài, Robert, với hy vọng ngài có thể phát hiện người này để tôi có thể bí mật hướng dẫn một nhóm an ninh tới chỗ hắn. Lẽ ra tôi nên có hành động mạnh mẽ hơn. Tôi đã phụ Edmond rồi.”
Langdon cảm thấy có gì đó xót xa khi cỗ máy của Edmond dường như đang thấy có lỗi. Ông liếc nhìn lại phía xác Edmond đã được phủ kín và thấy Ambra Vidal đang lại gần.
Fonseca không để ý đến nàng, vẫn hết sức chú ý đến Langdon.
“Cái máy tính,” anh ta hỏi, “đã cho ông biết tên của gã sĩ quan hải quân tình nghi à?”
Langdon gật đầu. “Tên hắn là Đô đốc Luis Ávila.”
Khi ông nói ra cái tên, Ambra dừng sững lại và trân trân nhìn Langdon, vẻ kinh hãi bất ngờ hiện rõ trên mặt nàng.
Fonseca nhận ra phản ứng ấy và lập tức tiến về phía nàng. “Cô Vidal? Cô thấy cái tên đó quen chăng?”
Ambra dường như không trả lời nổi. Nàng hạ ánh mắt và đăm đăm nhìn xuống sàn như thể nàng vừa nhìn thấy một bóng ma vậy.
“Cô Vidal,” Fonseca nhắc lại. “Đô đốc Luis Ávila… cô biết cái tên này phải không?”
Vẻ chấn động của Ambra cho thấy rành rành rằng thực tế nàng biết kẻ sát nhân. Sau một lúc sững sờ, nàng chớp mắt hai lần và đôi mắt đen của nàng bắt đầu linh hoạt trở lại, như thể nàng đang tỉnh lại sau cuộc lên đồng. “Không… tôi không biết cái tên đó,” nàng thì thào, liếc nhìn Langdon sau đó nhìn lại nhân viên an ninh của mình. “Tôi chỉ… thấy sốc khi nghe được là kẻ giết người lại là một sĩ quan của hải quân Tây Ban Nha thôi.”
Cô ta nói dối, Langdon cảm nhận được, lúng túng không rõ vì sao nàng lại tìm cách che giấu phản ứng của mình. Mình nhìn thấy điều đó. Cô ta nhận ra tên của tay đó.
“Ai chịu trách nhiệm về danh sách khách mời?!” Fonseca gặng hỏi, bước thêm một bước về phía Ambra. “Ai đã thêm tên của người đó?”
Giờ đôi môi Ambra run run. “Tôi… tôi không rõ.”
Những câu hỏi của người cận vệ bị xen ngang bởi tạp âm đột ngột của điện thoại di động cùng đổ chuông và kêu inh ỏi khắp trong nhà vòm. Rõ ràng Winston đã tìm ra cách phục hồi sóng di động và một trong những chiếc điện thoại lúc này đang kêu lại nằm trong túi áo Fonseca.
Anh chàng đặc vụ Cận vệ thò tay lấy điện thoại của mình, nhìn thông tin người gọi và hít một hơi thở sâu rồi mới trả lời. “Ambra Vidal está a salvo,” anh ta nói.
Ambra Vidal an toàn. Langdon đưa ánh mắt về phía người phụ nữ rầu rĩ. Nàng cũng đang nhìn ông. Khi ánh mắt họ gặp nhau, họ cùng trân trân nhìn nhau một lúc lâu.
Sau đó, Langdon nghe thấy giọng Winston vang lên trong tai nghe của mình.
“Giáo sư,” Winston thì thào. “Ambra Vidal biết rất rõ bằng cách nào Luis Ávila có tên trong danh sách khách mời. Chính cô ta đã thêm tên hắn vào.”
Langdon cần một lúc mới lĩnh hội được thông tin ấy.
Chính Ambra Vidal đưa tên kẻ giết người vào danh sách khách mời ư?
Và bây giờ cô ta đang nói dối chuyện đó?!
Langdon chưa kịp xử lý được trọn vẹn thông tin này thì Fonseca đã chìa điện thoại di động của mình cho Ambra. Anh chàng đặc vụ nói: “Don Julián quiere hablar con usted.” (Don Julián quiere hablar con usted nghĩa là Đức Ngài Julián muốn nói chuyện với cô.)
Ambra gần như giãy nảy trước cái điện thoại. “Bảo anh ấy tôi không sao,” nàng trả lời. “Tôi sẽ gọi anh ấy sau một lúc nữa.”
Vẻ mặt của người cận vệ dường như hoàn toàn không tin nổi. Anh ta bịt chặt chiếc điện thoại và thì thào với Ambra, “Su alteza Don Julián, el príncipe, ha pedido…” (Su alteza Don Julián, el príncipe, ha pedido nghĩa là Thái tử điện hạ Julián đề nghị.)
“Tôi chẳng quan tâm anh ấy là hoàng tử,” nàng vặc lại. “Nếu anh ấy sắp là chồng tôi thì anh ấy sẽ phải học cách để tôi yên khi tôi cần. Tôi vừa chứng kiến một vụ giết người, và tôi cần một phút cho riêng mình! Bảo anh ấy tôi sẽ gọi lại cho anh ấy ngay.”