Thư viện Montserrat lừng danh, anh nhận ra, thấy giật mình vì đã được chấp nhận. Căn phòng bất khả xâm phạm này được đồn đại là nơi chứa những văn bản cực hiếm chỉ những tu sĩ dâng trọn đời mình cho Chúa và lánh mình ở đây trên ngọn núi này mới được tiếp cận.
“Anh được theo ý mình rồi nhé,” vị giám mục nói. “Đây là không gian riêng tư nhất của bọn ta. Rất ít người ngoài từng vào được đây.”
“Quả là một đặc ân to lớn. Xin cảm ơn cha.”
Kirsch theo vị giám mục tới một chiếc bàn gỗ lớn, nơi có hai người đàn ông lớn tuổi nữa đang ngồi đợi. Người ngồi bên trái trông như bị thời gian bào mòn, với đôi mắt mỏi mệt và hàm râu trắng rối bù. Ông mặc một bộ vest đen nhàu nhĩ, áo sơ mi trắng và đội mũ phớt mềm.
“Đây là Giáo trưởng Yehuda Köves,” vị giám mục nói. “Ông ấy là triết gia Do Thái có tiếng, từng viết rất nhiều về vũ trụ học bí truyền.”
Kirsch nhoài người qua bàn và nhã nhặn bắt tay Giáo trưởng Köves. “Hân hạnh được gặp ngài,” Kirsch nói. “Tôi đã đọc sách của ngài về pháp thuật bí truyền. Tôi không dám nói mình hiểu nhưng tôi đã đọc rồi.”
Köves gật đầu hòa nhã, lấy khăn tay chấm nhẹ lên cặp mắt ướt nhoèn.
“Còn đây,” vị giám mục nói tiếp, ra hiệu về phía người còn lại, “xin giới thiệu với anh ngài allamah* đáng kính Syed al-Fadl.” (allamah là danh hiệu tôn vinh tặng cho các vị học giả thông thạo kiến thức giáo luật, luật học và triết học Hồi giáo.)
Vị học giả Hồi giáo khả kính đứng lên và cười rất tươi. Ông thấp lùn và to bè, với khuôn mặt vui vẻ dường như rất không hợp với đôi mắt đen nhìn như xoáy của mình. Ông mặc một chiếc áo dài trắng rất khiêm nhường. “Anh Kirsch, tôi đã đọc những phỏng đoán của anh về tương lai của nhân loại. Tôi không dám nói tôi tán thành với những điều ấy, nhưng tôi đã đọc rồi.”
Kirsch mỉm cười lịch thiệp và bắt tay người đàn ông.
“Và vị khách của chúng ta, Edmond Kirsch,” vị giám mục kết luận, miệng nói với hai vị đạo hữu, “như các ngài biết, là một nhà khoa học máy tính, chuyên gia lý thuyết trò chơi, nhà sáng chế và phần nào là một nhà tiên tri rất được trọng vọng trong thế giới công nghệ. Dựa trên lai lịch của anh ấy, tôi rất bối rối trước đề nghị của anh ấy xin được nói chuyện với ba chúng ta. Do đó, giờ tôi sẽ nhường cho anh Kirsch được giải thích lý do anh ấy đến đây.”
Nói xong, Giám mục Valdespino ngồi xuống giữa hai vị đạo hữu, khoanh tay và nhìn Kirsch đầy trông đợi. Cả ba người đàn ông đối diện với anh như trong tòa án, tạo nên một bầu không khí có phần giống một phiên tòa xử dị giáo hơn là một cuộc gặp gỡ thân thiện của các học giả. Giờ Kirsch nhận ra vị giám mục thậm chí còn chưa lấy ghế cho anh.
Kirsch cảm thấy bối rối hơn là bị đe dọa khi anh chăm chú nhìn ba ông già trước mặt mình. Ra đây là Chúa Ba ngôi mà mình đề nghị. Ba bậc trí giả.
Ngừng một lúc để khẳng định sức ảnh hưởng của mình, Kirsch bước tới bên cửa sổ và nhìn ra khung cảnh đẹp mê hồn phía dưới. Một khoảnh đất đồng cỏ cổ xưa ngập nắng vắt ngang vùng thung lũng sâu, nhường chỗ cho những đỉnh núi lởm chởm của dãy núi Collserola. Xa hơn mấy dặm, đâu đó ngoài Biển Balearic, lúc này một khối mây dông bão đầy hăm dọa đang dồn tụ phía trên đường chân trời.
Hợp quá đi, Kirsch thầm nghĩ, cảm nhận rõ tình trạng náo loạn anh sắp gây ra trong căn phòng này và cả thế giới ngoài kia nữa.
“Thưa các vị,” anh mở lời, quay phắt lại phía họ. “Tôi tin Giám mục Valdespino đã chuyển tới các vị lời đề nghị giữ bí mật của tôi. Trước khi chúng ta tiếp tục, tôi chỉ muốn nói rõ những gì tôi sắp chia sẻ với quý vị phải được giữ kín hết mức. Nói đơn giản, tôi đề nghị tất cả các vị thề giữ im lặng. Tất cả chúng ta đồng ý chứ?”
Cả ba người đàn ông gật đầu ngầm tỏ ý ưng thuận, điều Kirsch có lẽ đã biết thừa rồi. Họ sẽ muốn chôn giấu thông tin này – chứ không phải lan truyền nó.
“Tôi ở đây hôm nay,” Kirsch bắt đầu, “vì tôi đã có một phát hiện khoa học mà tôi tin các vị sẽ thấy giật mình. Đó là điều tôi đã theo đuổi nhiều năm, với hy vọng đem lại câu trả lời cho hai câu hỏi cơ bản nhất về nhận thức của loài người chúng ta. Giờ tôi đã thành công, tôi đến gặp riêng các vị vì tôi tin thông tin này sẽ tác động đến niềm tin của cả thế giới một cách sâu sắc, hoàn toàn có thể gây nên một sự thay đổi mà chỉ có thể mô tả như chúng ta sẽ nói là – đổ vỡ. Lúc này, tôi là người duy nhất trên Trái Đất có được thông tin tôi sắp tiết lộ với các vị.”
Kirsch thò tay vào túi áo vest của mình và móc ra một chiếc điện thoại thông minh ngoại cỡ – thứ anh đã thiết kế và chế tạo để phục vụ cho những nhu cầu khác thường của riêng mình. Chiếc điện thoại có phần vỏ khảm màu sắc rất rực rỡ và anh mở bung nó ra như một cái ti vi trước mắt ba người đàn ông. Thoắt cái, anh dùng thiết bị đó kết nối với một máy chủ siêu an toàn, nhập mật khẩu gồm bốn mươi bảy mẫu tự của mình và phát trực tiếp một buổi thuyết trình cho họ xem.
“Những gì các vị sắp xem,” Kirsch nói, “là đoạn cắt thô một tuyên bố mà tôi hy vọng chia sẻ với cả thế giới – có lẽ trong khoảng một tháng nữa. Nhưng trước khi làm việc đó, tôi muốn tham vấn một vài nhà tư tưởng tôn giáo có ảnh hưởng nhất thế giới, để hiểu cho thấu đáo xem tin tức này sẽ được những người bị nó tác động nhiều nhất tiếp nhận như thế nào.”
Vị giám mục thở dài rất to, nghe có vẻ chán ngán hơn là lo lắng. “Phần nói đầu hấp dẫn đấy, Kirsch. Anh nói cứ như thể điều gì đó anh sắp cho chúng ta thấy sẽ lay chuyển nền tảng của các tôn giáo trên thế giới vậy.”
Kirsch đưa mắt nhìn khắp thư viện cổ kính chứa toàn những văn tự thiêng liêng. Nó sẽ không lay chuyển nền tảng của các vị đâu. Nó sẽ đập tan những thứ ấy cơ đấy.
Kirsch đánh giá mấy người trước mặt anh. Những gì họ không hề biết là trong thời gian chỉ ba ngày nữa, Kirsch đã lên kế hoạch công bố thuyết trình này trong một sự kiện gây chấn động được dàn dựng kỹ càng. Khi anh thực hiện việc đó, người dân trên khắp thế giới sẽ nhận ra rằng những giáo điều của mọi tôn giáo trên thực tế đều có chung một điểm.
Chúng đều sai lầm một cách thê thảm.
CHƯƠNG 1
Giáo sư Robert Langdon ngước nhìn bức tượng con chó cao tới mười hai mét chầu hẫu ở quảng trường. Bộ lông con vật này là một thảm cỏ và hoa thơm ngát.
Tao sẽ cố gắng thích mày, ông nghĩ. Thật sự đấy.
Langdon trầm ngâm nhìn con vật thêm một chút rồi tiếp tục đi dọc một lối đi đã tạm ngừng sử dụng, bước xuống cầu thang ngổn ngang với những mặt bậc khấp khểnh dự định gây khó chịu cho vị khách đang bước tới với nhịp đi và tốc độ thông thường của mình. Nhiệm vụ hoàn thành, Langdon quyết định, suýt vấp ngã hai lần trên mấy bậc thang không đều nhau.
Dưới chân cầu thang, Langdon nhảy xuống một chỗ dừng, mắt trân trân nhìn một khối to tướng lù lù phía trên.
Giờ thì mình nhìn trọn được nó rồi.
Một con nhện góa phụ đen sì, dữ tợn xuất hiện trước mặt ông, mấy cái chân mảnh khảnh bằng sắt của nó chống đỡ phần thân hình củ hành ở độ cao chí ít cũng gần bốn mét trong không trung. Phần dưới bụng con nhện lủng lẳng một bọc trứng bằng lưới thép, đựng đầy những quả cầu thủy tinh.
“Tên nó là Maman,” một giọng nói vang lên. Langdon hạ ánh mắt và nhìn người đàn ông mảnh khảnh đứng ngay bên dưới con nhện. Người ấy mặc một chiếc áo khoác sherwani* thêu kim tuyến màu đen và có bộ ria kiểu Salvador Dalí* uốn cong rất hài hước. (sherwani là loại áo khoác dài đến đầu gối dành cho nam giới, rất phổ biến ở tiểu lục địa Ấn Độ. Salvador Dalí tên đầy đủ là Salvador Felipe Jacinto Dalí i Domènech (1904-1989), là nghệ sĩ sinh ra tại Figueras, xứ Catalonia, Tây Ban Nha. Ông được coi như một trong những hoạ sĩ có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX với phong cách siêu thực. Ông còn được biết đến như một nhà điêu khắc, nhiếp ảnh, sản xuất phim… Ông đã đoạt giải Oscar dành cho phim hoạt hình ngắn Destino họp tác cùng Walt Disney.)
“Tên tôi là Fernando,” anh ta nói tiếp, “và tôi có mặt ở đây để chào đón ông tới thăm bảo tàng.”
Người đàn ông nhìn lướt một loạt thẻ ghi tên bày trên chiếc bàn trước mặt anh ta. “Xin cho tôi biết danh tính của ông?”
“Vâng. Robert Langdon.”
Ánh mắt người đàn ông vụt trở lại. “À, tôi rất xin lỗi! Tôi không nhận ra ngài!”
Tôi còn khó nhận ra mình nữa là, Langdon nghĩ, di chuyển cứng ngắc trong chiếc áo gi lê trắng, áo đuôi tôm đen và chiếc nơ trắng. Trông tôi hệt một gã Whiffenpoof*. Cái áo đuôi tôm cổ điển của Langdon đã ngót ba mươi năm, được gìn giữ từ những ngày ông còn là một thành viên Câu lạc bộ Ivy ở Princeton, nhưng nhờ chế độ bơi đều đặn hằng ngày, bộ đồ vẫn khá vừa vặn với ông. Lúc Langdon vội vàng sắp đồ, ông đã vớ nhầm cái túi quần áo treo trong tủ, mà bỏ lại bộ tuxedo quen thuộc của mình. (Whiffenpoof là tên nhóm hát của Đại học Yale, Hoa Kỳ, thành lập năm 1909, gồm mười bốn thành viên được lựa chọn hằng năm. Trang phục đặc trưng gồm áo đuôi tôm đen, áo gi lê và nơ trắng.)
“Giấy mời nói mặc đồ đen và trắng,” Langdon nói. “Tôi tin áo đuôi tôm hoàn toàn phù hợp nhỉ?”
“Áo đuôi tôm là trang phục truyền thống mà! Trông ngài rất bảnh!” Người đàn ông bước vội lại và cẩn thận dán một miếng thẻ ghi tên vào ve áo vest của Langdon.
“Thật vinh hạnh được gặp ngài,” người đàn ông có bộ ria nói. “Chắc hẳn trước đây, ngài đã từng ghé chỗ chúng tôi rồi?”
Langdon chăm chú nhìn xuyên qua mấy cái chân nhện hướng về phía tòa nhà lấp loáng trước mặt họ. “Thực ra, tôi rất ngại khi phải nói rằng tôi chưa có dịp.”