Langdon dừng bước. “Nếu anh là máy tính, hãy nói với tôi chuyện này. Chỉ số trung bình Công nghiệp Dow Jones ở mức nào lúc đóng cửa ngày 24 tháng 8 năm 1974?”
“Đó là ngày thứ Bảy,” giọng nói trả lời tức thì. “Cho nên thị trường không mở cửa.”
Langdon cảm thấy ớn lạnh. Ông đã chọn một mốc thời gian đánh lừa. Một trong những hiệu ứng phụ từ trí nhớ rành rẽ của ông là việc những ngày tháng cứ khắc ghi mãi mãi trong tâm trí ông. Ngày thứ Bảy đó là sinh nhật người bạn thân nhất của ông, và Langdon vẫn nhớ bữa tiệc bên bể bơi buổi chiều đó. Helena Wooley mặc một bộ áo tắm màu xanh dương.
“Tuy nhiên,” giọng nói bổ sung ngay, “vào ngày hôm trước, thứ Sáu, 23 tháng 8, chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đóng cửa ở 686,80, giảm 17,83 điểm vì mất 2,53 phần trăm.”
Langdon nhất thời không nói lên lời.
“Tôi rất vui được chờ đợi,” giọng nói vang lên, “nếu như ngài muốn kiểm tra dữ liệu trên điện thoại thông minh của mình. Mặc dù tôi không có lựa chọn nào ngoài việc mỉa mai sự việc đó.”
“Nhưng… tôi không…”
“Thử thách với trí thông minh nhân tạo,” giọng nói tiếp tục, sắc thái Anh nhẹ lúc này dường như là lạ hơn lúc trước, “không phải là truy cập dữ liệu mau lẹ, vốn thật sự khá đơn giản, mà là khả năng nhận thức được dữ liệu được kết nối và đan kết như thế nào – điều tôi tin ngài rất xuất chúng, phải không nhỉ? Mối quan hệ qua lại của các ý tưởng ư? Đây là một trong những lý do ngài Kirsch muốn kiểm tra năng lực của tôi với riêng ngài.”
“Một bài kiểm tra à?” Langdon hỏi. “Với… tôi sao?”
“Không hẳn.” Lại tiếng cười vụng về vang lên. “Một bài kiểm tra với tôi. Để xem liệu tôi có thể thuyết phục được ngài tôi là con người không.”
“Một phép thử Turing.”
“Chính xác.”
Phép thử Turing, Langdon nhớ ra, là một thử thách được chuyên gia giải mã Alan Turing* đề xuất nhằm đánh giá khả năng của một cỗ máy có thể ứng xử theo cách thức không khác biệt với ứng xử của một con người, về cơ bản, một người đánh giá nghe một cuộc đối thoại giữa một cỗ máy và một con người, và nếu người đánh giá không thể phân biệt được bên nào là con người thì phép thử Turing được xem là thành công. Thử thách chuẩn của Turing đã thành công năm 2014 tại Hiệp hội Hoàng gia ở London. Kể từ đó công nghệ trí thông minh nhân tạo đã tiến bộ với một tốc độ chóng mặt. (Alan Turing (1912-1954) là nhà toán học, logic học và mật mã học người Anh, thường được xem là cha đẻ của ngành khoa học máy tính, đưa ra phép thử Turing năm 1950.)
“Cho đến giờ trong buổi tối nay,” giọng nói tiếp tục, “không một vị khách nào của chúng tôi nghi ngờ gì cả. Tất cả đều có một quãng thời gian tuyệt vời.”
“Khoan đã, tất cả mọi người ở đây tối nay đều đang nói chuyện với máy tính à?!”
“Về mặt kỹ thuật, tất cả đều đang nói chuyện với tôi. Tôi có thể phân thân rất dễ dàng. Ngài đang nghe giọng nói mặc định của tôi – giọng nói mà Edmond ưa thích – nhưng những người khác thì đang nghe các giọng hoặc ngôn ngữ khác. Dựa trên tiểu sử của ngài là một nam giới học thuật người Mỹ, tôi chọn chất giọng Anh quốc nam mặc định của mình cho ngài. Tôi đoán rằng như thế sẽ tạo ra sự tự tin lớn hơn là một giọng nữ trẻ kéo dài kiểu miền nam chẳng hạn.”
Có phải cái thứ này vừa nói mình là một kẻ sô vanh không nhỉ?
Langdon nhớ ra một đoạn ghi âm rất thịnh hành từng được lưu hành trên mạng vài năm trước: Ông trưởng ban Michael Scherer của tạp chí Time được một người máy tiếp thị qua điện thoại gọi điện và người máy giống người đến mức Scherer đã đăng tải đoạn ghi âm cuộc gọi lên mạng để tất cả mọi người cùng nghe.
Chuyện đó nhiều năm trước rồi, Langdon nhận ra vậy.
Langdon biết rằng Kirsch đeo đuổi trí thông minh nhân tạo đã nhiều năm, thỉnh thoảng lại xuất hiện trên bìa các tạp chí ca ngợi những đột phá khác nhau. Rõ ràng, hậu duệ “Winston” của Kirsch chính là đại diện cho trình độ tân tiến hiện tại của cậu ấy.
“Tôi nhận ra toàn bộ việc này diễn ra rất mau chóng,” giọng nói tiếp tục, “nhưng ngài Kirsch có yêu cầu rằng tôi cho ngài xem đường xoắn ốc này ở đúng chỗ lúc này ngài đang đứng. Ông ấy đề nghị rằng ngài hãy vui lòng bước vào trong đường xoắn ốc và tiếp tục đi hết đến phần trung tâm.”
Langdon ngó vào cái lối đi uốn cong chật hẹp và cảm thấy các cơ của mình cứng lại. Có khi đây là ý tưởng của Edmond về một trò tinh nghịch thời đại học chăng? “Anh có thể nói cho tôi biết trong đây có gì không? Tôi vốn không phải người chuộng những không gian chật hẹp lắm.”
“Rất thú vị, tôi không biết chi tiết đó về ngài.”
“Tâm lý sợ không gian tù túng không phải là chuyện tôi đưa vào lý lịch trên mạng của mình.” Langdon sực tỉnh, vẫn không thể hình dung được mình đang nói chuyện với một cỗ máy.
“Ngài không cần thiết phải sợ. Không gian ở trung tâm đường xoắn ốc khá rộng rãi và ngài Kirsch đặc biệt có yêu cầu rằng ngài hãy xem xét phần trung tâm. Tuy nhiên, trước khi ngài bước vào, Edmond có đề nghị rằng ngài hãy gỡ tai nghe và đặt lên sàn ở phía ngoài đây.”
Langdon ngập ngừng nhìn khối cấu trúc lù lù.
“Anh sẽ không đi cùng với tôi à?”
“Hẳn nhiên là không rồi.”
“Anh biết đấy, toàn bộ việc này rất lạ lùng, và tôi không hoàn toàn…”
“Thưa Giáo sư, nghĩ đến chuyện Edmond đưa ngài đi cả chặng đường tới sự kiện này thì dường như ngài đi bộ một quãng ngắn vào trong tác phẩm nghệ thuật này là một đề nghị rất nhỏ nhoi. Trẻ con vẫn làm việc đó hằng ngày và sống khỏe mà.”
Langdon chưa bao giờ bị một cỗ máy trách cứ cả, nếu thực tế thứ này đúng là như vậy, những lời nhận xét gay gắt có tác dụng như mong muốn liền. Ông gỡ tai nghe và thận trọng đặt lên sàn, giờ quay mặt đối diện với lối vào đường xoắn ốc. Những vách tường cao hình thành một đường hẻm rất hẹp uốn cong hút tầm nhìn, biến mất trong bóng tối.
“Chẳng vấn đề gì cả,” ông tự nói với mình
Langdon hít một hơi thật sâu và sải bước vào trong.
Lối đi uốn cong mãi, xa hơn ông hình dung, ngoằn ngoèo sâu hơn và chẳng mấy chốc Langdon không còn biết mình đã xoay vòng bao nhiêu lần rồi. Với mỗi vòng xoay thuận chiều kim đồng hồ, lối đi lại trở nên hẹp hơn, và đôi vai rộng của Langdon lúc này gần như cọ sát vào vách. Thở đi, Robert. Các tấm kim loại đặt xiên có cảm giác như chúng có thể đổ sập vào trong bất kỳ lúc nào và đè bẹp ông bên dưới hàng tấn thép.
Tại sao mình lại làm chuyện này nhỉ?
Ngay trước lúc Langdon định quay lại và đi ngược ra thì lối đi đột ngột kết thúc, để ông xuất hiện trong một không gian mở rộng rãi. Đúng như đã hứa, một căn phòng lớn hơn ông mong đợi. Langdon bước nhanh khỏi đường hầm ra khoảng trống, thở hắt ra trong lúc xem xét mặt sàn trơ trụi và những bức tường kim loại cao, lại cảm thấy băn khoăn không biết đây có phải là một màn chơi xỏ tinh vi của đám sinh viên đại học không.
Một cánh cửa lạch xạch đâu đó bên ngoài, và những tiếng chân bước nhanh nhẹn vang lên phía ngoài những bức tường cao. Có ai đó vừa bước vào phòng trưng bày, đi qua cánh cửa gần đó mà Langdon đã thấy. Tiếng bước chân tiến lại đường xoắn ốc và sau đó bắt đầu đi vòng sang phía Langdon, càng lúc càng rõ hơn sau mỗi khúc ngoặt. Có ai đó đang bước vào cái đường ống kia.
Langdon tựa lưng và đối diện lối ra trong khi tiếng bước chân tiếp tục đi lượn vòng, tiến lại gần hơn. Tiếng lách cách ngắt âm rõ hơn cho tới khi một người đàn ông đột ngột xuất hiện từ trong đường hầm. Anh ta thấp lùn và mảnh dẻ với làn da xanh xao, đôi mắt rực sáng và một mớ tóc đen buông tự nhiên.
Langdon trân trân nhìn người đàn ông một lúc lâu và cuối cùng mới cho phép mình nở nụ cười ngoác đến mang tai. “Edmond Kirsch vĩ đại lúc nào cũng có màn xuất hiện long trọng.”
“Có mỗi cơ hội duy nhất để gây ấn tượng lần đầu thôi mà thầy,” Kirsch niềm nở đáp lời. “Em rất nhớ thầy, thầy Robert. Cảm ơn thầy đã đến.”
Hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau. Khi Langdon vỗ vỗ lên lưng người bạn cũ, ông cảm thấy Kirsch gầy hơn hẳn.
“Em giảm cân đấy,” Langdon nói.
“Em ăn chay mà,” Kirsch đáp. “Còn dễ dàng hơn là phép tinh lược.”
Langdon bật cười. “Chà, thật vui được gặp em. Và, lúc nào cũng vậy, em khiến tôi cảm thấy mình ăn mặc quá diện.”
“Ai cơ, em à?” Kirsch liếc nhìn xuống chiếc quần bò đen lẳng nhẳng cùng áo phông cổ chữ V trắng và chiếc áo khoác ngắn tay chun của mình. “Thế này là sang rồi.”
“Dép xỏ ngón màu trắng là sang à?”
“Dép xỏ ngón ạ?! Đôi này là hàng Ferragamo Guineas đấy.”
“Và tôi đoán chúng còn đắt hơn toàn bộ phục trang của tôi ấy chứ.”
Edmond bước lại và kiểm tra nhãn hiệu trên chiếc áo khoác cổ điển của Langdon.
“Thật ra,” anh nói, mỉm cười ấm áp, “đây là chiếc áo đuôi tôm rất đẹp. Vừa vặn lắm.”
“Tôi phải nói với em, Edmond ạ, anh bạn nhân tạo Winston của em… rất đáng ngại.”
Kirsch cười toét. “Phi thường phải không ạ? Thầy không thể tin nổi những gì em đã hoàn thành trong lĩnh vực trí thông minh nhân tạo trong năm nay đâu – những bước nhảy vọt ngoạn mục. Em đã phát triển một số công nghệ độc quyền mới giúp máy móc giải quyết vấn đề và tự kiểm soát theo những cách thức hoàn toàn mới. Winston là một dự án đang triển khai, nhưng nó tiến bộ hằng ngày.”
Langdon nhận thấy những nếp nhăn hằn sâu xuất hiện quanh đôi mắt trẻ con của Edmond sau một năm qua. Anh chàng này trông rất mỏi mệt. “Edmond, em có ngại nói cho tôi biết tại sao em lại đưa tôi đến đây không?”
“Tới Bilbao ạ? Hay là vào đường xoắn ốc Richard Serra?”
“Chúng ta bắt đầu từ đường xoắn ốc đi,” Langdon nói. “Em biết tôi sợ không gian tù túng mà.”
“Chính xác. Tối nay là nhằm đẩy mọi người ra khỏi vùng dễ chịu của họ,” anh nói kèm nụ cười đầy tự mãn.
“Vẫn luôn là đặc trưng của em.”