Việc Ávila tấn công Langdon trong buồng cầu thang xoắn ốc, Winston quả quyết với ông, là ngoài dự liệu. “Tôi cử Ávila tới Sagrada Família để bị bắt giữ,” Winston khẳng định. “Tôi muốn hắn bị bắt để có thể kể câu chuyện nhơ nhớp của hắn, như thế sẽ khiến công chúng càng thêm quan tâm đến công trình của Edmond. Tôi bảo hắn vào tòa nhà qua cổng dịch vụ phía đông, nơi tôi đã mật báo cho cảnh sát nấp ở đó. Tôi chắc chắn Ávila sẽ bị tóm ở đó, nhưng hắn quyết định nhảy rào – có lẽ hắn cảm thấy sự hiện diện của cảnh sát. Vô cùng xin lỗi, thưa Giáo sư. Không như máy móc, con người có thể dễ thay đổi.”
Langdon không biết phải tin tưởng gì thêm nữa.
Lời giải thích cuối cùng của Winston mới là khó chịu nhất. “Sau cuộc gặp của Edmond với ba vị giáo sĩ tại Montserrat”, Winston nói, “chúng tôi nhận được một thư thoại đe dọa từ Giám mục Valdespino. Giám mục cảnh báo rằng hai đồng đạo của ông ấy rất lo ngại với thuyết trình của Edmond nên họ đang tính đến việc đưa ra một thông báo trước của chính họ, hy vọng hạ giá trị thông tin trước khi nó được đưa ra. Rõ ràng, tình cảnh đó không thể chấp nhận được.”
Langdon cảm thấy buồn nôn, phải cố gắng suy nghĩ khi toa cáp treo lắc lư. “Edmond lẽ ra nên thêm một dòng vào chương trình của anh,” ông nói. “Anh sẽ không giết người!”
“Rất buồn, việc đó không đơn giản, thưa Giáo sư,” Winston đáp. “Con người không học hỏi bằng việc tuân thủ những mệnh lệnh, họ học qua ví dụ. Đánh giá qua sách vở, phim ảnh, tin tức và những câu chuyện cổ của quý vị thì con người luôn ca tụng những người hy sinh bản thân cho một điều tốt đẹp lớn lao hơn. Jesus, chẳng hạn.”
“Winston, tôi chẳng thấy ‘điều tốt đẹp lớn lao hơn’ ở đây.”
“Không ư?” Giọng Winston vẫn bình thản. “Vậy thì để tôi hỏi ngài câu hỏi nổi tiếng này: Ngài muốn sống trong một thế giới không có công nghệ… hay trong một thế giới không có tôn giáo? Ngài thích sống không có thuốc men, điện, giao thông, và kháng sinh… hay không có những kẻ cuồng tín phát động chiến tranh vì những câu chuyện hư cấu và những vị thần thánh tưởng tượng?”
Langdon vẫn im lặng.
“Quan điểm chính xác của tôi, thưa Giáo sư. Những tôn giáo u tối phải tiêu vong, để cho khoa học lành mạnh thống trị.”
Giờ còn lại một mình, trên đỉnh lâu đài, khi Langdon nhìn xuống vùng nước lung linh phía xa, ông có một cảm giác kỳ lạ về sự tách rời với thế giới của chính mình. Bước xuống những bậc thang lâu đài để tới mấy khu vườn gần đó, ông hít thật sâu, tận hưởng mùi thông và hoa long đờm, và cố hết sức quên đi giọng nói của Winston. Ở đây, giữa muôn hoa, Langdon chợt thấy nhớ Ambra, muốn gọi để nghe giọng nàng và kể với nàng mọi việc đã xảy ra trong một giờ qua. Tuy nhiên, khi rút chiếc điện thoại của Edmond ra, ông biết mình không thể thực hiện cuộc gọi.
Hoàng tử và Ambra cần thời gian riêng. Việc này có thể đợi.
Ánh mắt ông chạm xuống cái biểu tượng W trên màn hình. Cái biểu tượng này giờ đây xám xịt, và một tin nhắn báo lỗi nhỏ xuất hiện chạy ngang: LIÊN LẠC KHÔNG TỒN TẠI. Cho dù vậy, Langdon vẫn cảm thấy một sự thận trọng khá bối rối. Ông không phải một người hoang tưởng, nhưng ông biết ông sẽ không bao giờ có thể lại tin tưởng thiết bị này nữa, luôn phải tự hỏi còn những khả năng hay kết nối bí mật gì có thể vẫn được cất giấu trong chương trình của nó.
Ông đi xuống một lối hẹp và tìm kiếm cho tới khi thấy một khoảnh cây cối kín đáo. Nhìn chiếc điện thoại trên tay mình và nghĩ đến Edmond, ông đặt nó lên một phiến đá bằng phẳng. Sau đó, như thể đang thực hiện một nghi lễ hiến sinh nào đó, ông vung một hòn đá nặng lên đầu và nện mạnh xuống, đập tan chiếc điện thoại thành mấy chục mảnh.
Trên đường ra khỏi công viên, ông thảy đống mảnh vụn vào một thùng rác và đi xuống núi.
Khi làm vậy, Langdon phải thừa nhận bản thân thấy nhẹ nhõm một chút.
Và, một cách rất lạ lùng… con người hơn một chút.
LỜI KẾT
Vầng mặt trời chiều muộn chiếu sáng những ngọn tháp của Sagrada Família, rọi phần bóng đen ngang qua Quảng trường Gaudí và che mát cho từng hàng du khách đang đợi vào nhà thờ.
Robert Langdon đứng lẫn trong số họ, nhìn những cặp tình nhân tự chụp ảnh, những du khách quay video và lũ trẻ nghe tai nghe, còn mọi người xung quanh đều bận rộn nhắn tin, bấm máy, và cập nhật – rõ ràng chẳng biết gì về vương cung thánh đường cạnh họ cả.
Thuyết trình của Edmond tối hôm qua đã nói rằng công nghệ giờ đây chia “sáu mức độ chia tách” của con người thành “bốn cấp độ”, với mọi sinh linh trên Trái Đất giờ đều kết nối với mọi người khác qua không quá bốn người nữa.
Sớm muộn con số đó sẽ là không, Edmond nói, ca ngợi “tính đơn nhất” sắp tới – cái thời khắc khi trí thông minh nhân tạo vượt xa trí thông minh của con người và hai thứ sẽ hòa trộn làm một. Và khi điều đó xảy ra, anh nói thêm, những ai trong chúng ta còn sống ngay lúc này… chúng ta sẽ trở thành cổ lỗ.
Langdon chẳng cần hình dung khung cảnh tương lai ấy, nhưng khi ông nhìn mọi người quanh mình, ông cảm thấy rằng những phép mầu của tôn giáo sẽ gặp một thời kỳ ngày càng khó khăn khi cạnh tranh với những phép mầu của công nghệ.
Cuối cùng khi Langdon vào được nhà thờ, ông nhẹ người khi lại thấy cái không khí quen thuộc – chẳng hề có gì giống cái hang ma quái tối hôm trước.
Hôm nay, Sagrada Família đầy sức sống.
Những quầng sáng ngũ sắc – son, vàng, tía – rọi qua lớp kính màu, khiến cho rừng cột chống dày đặc của tòa nhà sáng bừng lên. Hàng trăm khách tham quan, nhỏ bé trước những cột trụ nghiêng nghiêng như những cái cây, chăm chú nhìn lên khoảng không gian vòm rực rỡ, những tiếng thì thào thán phục của họ tạo ra mọt thứ âm thanh rì rầm dễ chịu.
Khi Langdon lần qua thánh đường, ánh mắt ông tiếp nhận lần lượt từng hình thù hữu cơ, cuối cùng leo lên cái phần lưới của những cấu trúc trông như tế bào tạo thành phần đỉnh vòm. Phần trần trung tâm này, như một số người nói, giống một cơ thể phức tạp nhìn qua kính hiển vi. Giờ ngắm nhìn nó, rực rỡ ánh sáng, Langdon cũng phải thừa nhận vậy.
“Giáo sư?” một giọng nói quen thuộc gọi, và Langdon quay lại nhìn Đức cha Beña hối hả tiến đến gần. “Ta xin lỗi,” vị tu sĩ nhỏ thó nói rất chân thành. “Ta vừa nghe có người nhìn thấy anh đứng đợi theo hàng – anh có thể gọi cho ta mà!”
Langdon mỉm cười. “Cảm ơn cha, nhưng việc đó cho con thời gian chiêm ngưỡng phần mặt tiền. Thêm nữa, con đoán hôm nay cha còn ngủ.”
“Ngủ ư?” Đức cha Beña cười. “Có lẽ ngày mai.”
“Một không khí khác hẳn tối qua,” Langdon nói, ra hiệu về phía điện thờ.
“Ánh sáng tự nhiên làm nên kỳ quan,” Đức cha Beña trả lời. “Sự hiện diện của con người cũng vậy.” Ông ngừng lại, mắt nhìn Langdon. “Thực tế, vì anh ở đây, nếu không quá phiền phức, ta rất muốn biết suy nghĩ của anh về một thứ dưới nhà.”
Khi Langdon theo Đức cha Beña lách qua đám đông, ông nghe thấy những tiếng xây dựng vang vọng trên đầu, khiến ông nhớ rằng Sagrada Família vẫn đang được tiến hành xây dựng.
“Cha có tình cờ xem thuyết trình của Edmond không?” Langdon hỏi.
Đức cha Beña cười. “Thực tế là ba lần. Ta phải nói rằng cái khái niệm mới mẻ về entropy này – rằng vũ trụ ‘muốn’ lan tỏa năng lượng – nghe có phần như Sáng thế ký. Khi ta nghĩ đến Vụ nổ Lớn và vũ trụ mở rộng, ta nhìn thấy một quả cầu năng lượng lớn dần cứ phồng lên mãi vào bóng tối của vũ trụ… mang ánh sáng tới những nơi không hề có ánh sáng.”
Langdon mỉm cười, thầm mong Đức cha Beña là tu sĩ thời niên thiếu của ông. “Vatican có tuyên bố chính thức nào chưa ạ?”
“Họ đang cố gắng, nhưng dường như hơi” – Đức cha Beña nhún vai vẻ khôi hài – “chia rẽ. Vấn đề nguồn gốc loài người này, như anh đã biết, luôn là một điểm tắc nghẽn với Thiên Chúa giáo – đặc biệt là những người theo trào lưu chính thống. Nếu anh hỏi ta thì chúng ta cần giải quyết nó dứt điểm một lần.”
“Vậy ư?” Langdon hỏi. “Và chúng ta sẽ làm việc đó như thế nào?”
“Tất cả chúng ta cần làm những gì nhiều nhà thờ đã làm – công khai thừa nhận rằng Adam và Eve không tồn tại, rằng tiến hóa là một sự thật, và rằng tín đồ Thiên Chúa giáo tuyên bố khác đi sẽ khiến cho tất cả chúng ta trông rất ngốc nghếch.”
Langdon dừng sững lại, trân trân nhìn vị tu sĩ già.
“Ôi, xin anh!” Đức cha Beña cười nói. “Ta không tin rằng cùng một vị Chúa ban cho chúng ta cảm giác, lý trí và trí tuệ…”
“… lại dự định để chúng ta từ bỏ việc sử dụng những thứ đó phải không?”
Beña cười. “Ta thấy anh giống như Galileo. Vật lý thực tế là tình yêu thời niên thiếu của ta; ta đến với Chúa qua một sự tôn kính sâu sắc dành cho vũ trụ vật chất. Đó là một trong những lý do Sagrada Família quan trọng với ta đến vậy; nó giống như một nhà thờ của tương lai… một nhà thờ trực tiếp gắn kết với tự nhiên.”
Langdon tự hỏi liệu có phải Sagrada Família – cũng như Đền bách thần La Mã – có thể trở thành một điểm bùng phát của quá trình chuyển đổi, một công trình có một chân ở quá khứ và một chân ở tương lai, một cây cầu vật chất nối giữa một tín điều đang chết dần và một tín điều đang trỗi dậy. Nếu điều đó đúng thì Sagrada Família sẽ quan trọng hơn rất nhiều so với bất kỳ ai có thể hình dung.
Giờ Đức cha Beña dẫn Langdon xuống cái cầu thang xoắn mà họ đã xuống đêm qua.
Hầm mộ.
“Ta thấy rất rõ ràng,” Đức cha Beña nói trong lúc họ đi, “rằng chỉ có một cách Thiên Chúa giáo tồn tại trong kỷ nguyên khoa học sắp tới. Chúng ta phải thôi phủ nhận những phát minh khoa học. Chúng ta phải dừng phản bác những sự thật có thể chứng minh. Chúng ta phải trở thành một đối tác tinh thần của khoa học, sử dụng kinh nghiệm phong phú của chúng ta – hàng nghìn năm triết học, quá trình tìm tòi cá nhân, sự suy ngẫm, tự vấn lương tâm – để giúp con người xây dựng khuôn khổ đạo đức và bảo đảm rằng những công nghệ sắp tới sẽ đoàn kết, soi sáng và nâng chúng ta lên… chứ không phải hủy hoại chúng ta.”