Người Đức dạy con trên bàn ăn – Annette Kast-Zahn

Trong quá trình áp dụng nguyên tắc, bạn hãy luôn nhớ chỉ được phép cho con ăn thoả thích các loại hoa quả, rau, ngũ cốc cũng như mì và khoai tây.

Nếu con nhận thấy bạn thật sự nghiêm túc với việc tuân theo nguyên tắc – kể cả khi bạn vẫn chưa hoàn toàn an tâm cho lắm – thì con cũng sẽ nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc hơn. Con sẽ tự nguyện hơn trong việc tuân theo các lựa chọn về thức ăn, thời gian ăn cũng như các quy tắc khi ăn của bạn dành cho con. Nếu bạn không “chơi ăn gian” thì chắc chắn con cũng sẽ không làm điều đó.

Ăn uống đúng cách dành cho trẻ trong độ tuổi đi học

Bạn có cảm giác là bạn và con vẫn đang ở trong giai đoạn căng thẳng không? Tất cả những gì được đề cập trong phần trước về trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo cũng đúng với trẻ em trong độ tuổi đi học. Tuy vậy, giờ chúng ta phải chú ý một điều: ảnh hưởng từ bên ngoài bây giờ trở nên lớn hơn. Con giờ sẽ muốn ăn hoặc uống những gì con xem trên quảng cáo hoặc những gì con thấy các bạn khác ăn. Với số tiền tiêu vặt được cho, các con có thể tự mua bánh kẹo, bim bim hoặc các loại nước ngọt.

Dưới đây, chúng tôi sẽ tóm tắt những quy tắc quan trọng nhất của việc ăn uống đúng cách dành cho trẻ trong độ tuổi đi học.

Ăn như thế nào?

  • Dù thế nào bạn cũng phải duy trì những bữa ăn chung của cả gia đình. Bạn không được đưa thức ăn cho con tự ăn, đặc biệt là khi con đang xem ti vi.
  • Hãy để con giúp đỡ bạn trong lúc nấu nướng và chuẩn bị các bữa ăn nhẹ. Món salat rau quả sẽ ngon miệng gấp đôi nếu con được tự tay cắt nhỏ rau quả.
  • Nếu con không muốn ăn gì hết thì bạn hãy bảo con cùng ngồi vào bàn ăn và trò chuyện với con. Một phần tư tiếng đồng hồ bên bàn ăn không phải là không thể thực hiện được đối với một đứa trẻ trong độ tuổi đi học.
  • Bạn hãy tạo ra một không khí thoải mái trong khi ăn với con. Phàn nàn về lượng thức ăn cũng như lựa chọn thức ăn của con hoặc về các chủ đề khác như cách xử sự hoặc điểm số của con ở trên lớp – là điều cấm kỵ đối với bạn!
  • Bạn hãy cho phép con ra ngoài phòng khách chơi một vài phút nếu nhận thấy con không thoải mái khi bị bắt phải ngồi bên bàn ăn.

Nấu những món gì?

  • Bạn hãy nấu ăn theo tiêu chí là không những nấu cho con, mà còn nấu cho cả chính bạn nữa. Bạn chỉ có thể tạo ra được một không khí thoải mái bên bàn ăn khi chính bạn cũng cảm thấy ngon miệng.
  • Khi chuẩn bị đồ ăn nhẹ, bạn nên chú ý đến sở thích của con. Khi đi chợ hoặc đi siêu thị, bạn nên chú ý đến điều này. Bạn không nên mua bánh kẹo hoặc bim bim để sẵn trong nhà. Những loại đồ ăn này mà để sẵn sẽ là một cám dỗ rất lớn không chỉ đối với phần lớn trẻ em mà còn đối với cả nhiều người lớn nữa.
  • Con bạn sẽ thỉnh thoảng dùng tiền tiêu vặt để mua bánh kẹo. Nếu bạn mà cấm con làm như vậy, con vẫn sẽ tìm cách mua trộm. Nếu con tin tưởng và xin phép bạn trước, hãy nói với con rằng: “Đấy là tiền của con, bố/mẹ rất vui khi thấy con muốn ăn một chút gì đó cho đỡ đói.”
  • Các loại nước ngọt như đồ uống có ga hoặc nước giải khát đóng chai bạn cũng không thể cấm các con hoàn toàn được. Tuy vậy, bạn vẫn có thể hạn chế cho con uống các loại đồ uống này, ví dụ như chỉ cho con uống vào một số dịp nhất định như khi đi ăn nhà hàng, trong các ngày lễ tết hoặc các bữa liên hoan chẳng hạn.
  • Một số trẻ ngay cả khi đã đến tuổi đi học vẫn còn rất “kỹ tính” trong chuyện ăn uống. Chúng có một khẩu vị nhạy cảm và rất kén chọn đồ ăn. Trong trường hợp này, bạn nên thông cảm cho con. Bạn hãy cho phép con chọn ra một món gì đó trong thực đơn của bạn – và trong trường hợp bạn dẫn con đi ăn bên ngoài thì hãy chú tâm đến con một chút. Bù lại, bạn hãy yêu cầu con từ chối lịch sự khi không muốn ăn chứ không được vùng vằng hờn dỗi.

Chỉ khi trẻ đến tuổi đi học, chúng ta mới quan sát được vấn đề dinh dưỡng thường gặp nhất của xã hội ngày nay mà số lượng trẻ em mắc phải ngày càng tăng: bệnh béo phì. Tất cả những gì bạn đã đọc đến giờ phút này sẽ là biện pháp phòng tránh cho con không mắc phải căn bệnh này. Trong chương tiếp theo, chúng tôi sẽ dành hẳn một phần riêng để nói về chủ đề béo phì.

Tổng kết

⇒ Chúng ta đã làm được nhiều điều

Khi con đến tuổi đi học, bạn đã giúp con xây dựng được nền tảng cho thói quen ăn uống đúng cách. Giờ bạn đã có thể giải thích cho con về mô hình tháp dinh dưỡng cũng như về quy tắc ăn uống đúng cách. Nếu bạn chưa thực hiện điều đó thì bây giờ cũng vẫn chưa hề muộn để đưa vào áp dụng các quy tắc này.

4. Những vấn đề đặc biệt

Trong chương này, bạn sẽ biết:

  • Quy tắc ăn uống quan trọng như thế nào đối với các trẻ béo phì?
  • Quy tắc ăn uống quan trọng như thế nào trong việc phòng tránh các chứng rối loạn tiêu hóa nghiêm trọng?
  • Những gì bạn nên biết về dị ứng thực phẩm và các phản ứng không mong muốn khác do thực phẩm gây ra?
  • Phải làm gì khi con không hấp thụ được chất dinh dưỡng do tiêu chảy hoặc nôn mửa?

Khi cân bằng cơ thể bị rối loạn

Khi cơ thể bị thừa chất: Béo phì

Béo phì TẤT CẢ CÁC CHUYÊN GIA ĐỀ̀U NHẤT TRÍ RẰNG: Ngày càng có nhiều trẻ em ở Đức, đặc biệt là các em trong độ tuổi đi học, mắc phải chứng béo phì. Các em không những phải chịu sức ép về mặt tâm lý mà lâu dài còn phải gánh chịu các hậu quả xấu ảnh hưởng đến sức khỏe: xương và khớp của các em phải tải một trọng lượng cơ thể quá lớn và hệ tuần hoàn do đó cũng bị ảnh hưởng, các em thường hay mắc chứng bệnh cao huyết áp hoặc tiểu đường.

Cách sinh hoạt tạo nên sự khác biệt

Trẻ em càng nặng cân thì càng khó vận động – một điều trớ trêu là chính vận động thân thể sẽ giúp các em cải thiện tình trạng béo phì của mình. Càng ít vận động thì trẻ tăng cân càng nhanh – đây là một vòng luẩn quẩn rất nan giải với các em. Yếu tố di truyền cũng là một nguyên nhân quan trọng gây ra chứng béo phì (80% các trường hợp trẻ em trong cùng độ tuổi có cân nặng khác nhau là do yếu tố di truyền). Mặc dù vậy, không có đứa trẻ nào chỉ vì di truyền mà lại bị thừa cân cả. Điểm mấu chốt ở đây là: ở một số trẻ, chế độ dinh dưỡng không đúng cách và ít vận động không dẫn ngay đến chứng béo phì nhưng ở một số em khác, những em mà thường xuyên có thói quen ăn uống không đúng cách và ít vận động, thì béo phì là một hậu quả tất yếu. Chính thói quen và lối sống của chúng ta ngày nay đóng vai trò quyết định ở đây. Bạn sẽ không thể tìm ra được một lời giải thích nào xác đáng hơn cho việc ngày càng có nhiều trẻ em bị thừa cân. Rõ ràng là có một vài thói quen xấu tạo điều kiện cho bệnh béo phì phát sinh. Ví dụ:

  • Ít vận động
  • Chế độ dinh dưỡng chứa nhiều chất béo
  • Ăn vặt tự do không đúng bữa (trong đó bao gồm đồ ngọt và các loại đồ ăn không có lợi cho sức khỏe khác)

Đặc biệt nguy hiểm là thói quen ngồi hàng tiếng đồng hồ trước màn hình ti vi: Trẻ không hề vận động thân thể trong khi xem ti vi, nhiều bé còn hay ăn trong lúc xem. Thường thì những đồ ăn này lại chứa nhiều chất béo hoặc nhiều đường hoặc có khi là cả hai. Thói quen xấu này hội tụ đầy đủ chế độ dinh dưỡng không đúng cách: ăn đồ ngọt và béo chứa nhiều calo, ăn không đúng bữa và ít vận động. Với những trẻ lớn tuổi hơn, mối liên quan giữa thói quen xem ti vi nhiều và bệnh béo phì còn rõ ràng nhận thấy hơn so với những bé nhỏ tuổi.

Làm thế nào để nhận biết một đứa trẻ bị mắc chứng béo phì?

Chúng ta không thể chỉ nhìn một đứa trẻ và bảo rằng nó “quá béo”. Ở phần trước, chúng tôi đã giải thích về biểu đồ tăng trưởng. Biểu đồ này có thể cung cấp cho ta những thông tin bổ sung quan trọng. Một chẩn đoán bệnh chính xác nhất chỉ có bác sĩ nhi mới đưa ra được: một bác sĩ nhi có thể khẳng định được lượng mỡ trong cơ thể trẻ bằng việc đo độ dày của vết nhăn trên da.

Chỉ số BMI(3)
*(3) Chỉ số khối cơ thể, tên tiếng Anh là Body Mass Index, để đánh giá mức độ gầy hay béo của một người.

Các bác sĩ nhi cũng có thể đo chỉ số BMI của trẻ và dựa vào đó để khẳng định xem cân nặng của trẻ có ở trong giới hạn tương xứng với độ tuổi hay không. Chỉ số này cho ta biết tương quan giữa chiều cao và cân nặng của trẻ có ở trong mức hợp lý hay không.

Chỉ số BMI được tính đơn giản theo công thức sau đây:

Công thức tính chỉ số BMI

Ví dụ nếu bạn cao 1,70 m và nặng 60 kg thì chỉ số BMI của bạn sẽ là:

Ví dụ về cách tính chỉ số BMI

Với một chỉ số BMI dưới 21, bạn còn cách xa mức béo phì. Đối với người trưởng thành, mức béo phì cấp độ nhẹ bắt đầu từ BMI 25 trở lên và cấp độ nặng từ BMI 30 trở lên.

Với trẻ em, công thức tính cũng đơn giản như vậy. Tuy nhiên, chỉ số BMI nói lên điều gì về thể trạng cơ thể của các em còn tùy thuộc vào độ tuổi của chúng. Như bạn đã biết, từ khi sinh ra cho đến năm 6 tuổi, lượng mỡ trong cơ thể trẻ sẽ giảm đi liên tục. Sau 6 tuổi, lượng mỡ sẽ lại tăng lên một cách rõ rệt, ở các bé gái, lượng mỡ sẽ tăng nhanh hơn ở các bé trai. Kết quả là: một bé gái 6 tuổi có chỉ số BMI từ 18 trở lên sẽ bị coi là béo phì và một bé gái 11 tuổi chỉ bị coi là béo phì nếu bé có chỉ số BMI từ 22 trở lên. Hai ví dụ minh họa:

Bé Silvia 6 tuổi, cao 1,20 m và nặng 28 kg. Chỉ số BMI của bé (28:1,44) sẽ là 19, như vậy có thể coi là bé bị béo phì. Bé Klara 11 tuổi, cao 1,50 m và có cân nặng là 48 kg. Chỉ số BMI của bé (48:2,25) sẽ là 21, còn cao hơn chỉ số BMI của bé Silvia. Tuy nhiên, với độ tuổi của Klara thì chỉ số này vẫn nằm trong giới hạn cho phép.

Vì bảng phân loại chỉ số BMI theo độ tuổi rất phức tạp nên chúng tôi không muốn đưa ra ở đây. Nếu không an tâm, bạn có thể liên lạc với bác sĩ của con. Không hiếm các trường hợp cha mẹ lo lắng quá mức, cho rằng con mình bị “thừa cân” trong khi trên thực tế cân nặng của bé vẫn nằm trong mức hoàn toàn bình thường. Muốn biết con có bị thừa cân hay không, bạn hãy tính chỉ số BMI của con và so với bảng phân loại các mức BMI theo độ tuổi. Trong trường hợp con thật sự bị béo phì thì sự trợ giúp của bạn dành cho con là vô cùng cần thiết.

Phải giúp con thế nào khi con bị thừa cân?

Tỉ lệ thành công của việc điều trị chứng béo phì ở trẻ em và cả ở người lớn, đáng tiếc là rất thấp. Cho nên cách phòng tránh mới thực sự là quan trọng. Việc tuân thủ quy tắc ăn uống, kết hợp với việc cho con vận động thường xuyên chính là cách phòng tránh hữu hiệu nhất. Bằng cách này, bạn đã chuẩn bị cho con những điều kiện tối ưu để phòng bệnh, con khó có thể mắc bệnh béo phì. Tuy nhiên, có thể xảy ra trường hợp bé vẫn tăng cân và trở nên nặng ký hơn so với các bạn cùng trang lứa. Nguyên nhân là cơ thể của bé đã đạt đến khối lượng được quy định bởi gen mà bé nhận được từ cha mẹ. Trong trường hợp này, bạn nên giúp con cảm thấy thoải mái với cơ thể của mình. Đáng tiếc là những trẻ mới chỉ hơi nặng cân một chút – ngay cả khi các em không thực sự mắc chứng béo phì – cũng đã phải chịu đựng một áp lực rất lớn. Các em thường bị bạn bè chế giễu và bị người lớn thúc ép.

Trong trường hợp con thực sự quá béo và đi lại khệ nệ, hãy giúp con bằng cách động viên thay vì tạo sức ép.