Sự du nhập của văn hóa chia sẻ (share)
Cùng với sự phát triển của các dịch vụ tiện ích, gọn nhẹ, chúng ta không thể bỏ qua sự du nhập của văn hóa “share”, văn hóa chia sẻ. “Share” gần như đã trở thành một từ rất ngầu trong giới trẻ, tượng trưng cho sự công nhận của mọi người hơn là khư khư giữ lấy một mình.
Mặc dù hiện nay, ở một số địa phương vẫn còn kiểu bắt buộc mỗi người một phương tiện, nhưng ở các thành phố lớn nơi giao thông phát triển thì việc dùng chung xe với người khác cũng không còn lạ lẫm. Với các ưu điểm như tiết kiệm thuế, tiết kiệm tiền xăng xe, vừa túi tiền và còn góp phần bảo vệ môi trường, dùng chung xe đang được phổ biến nhanh chóng trong toàn xã hội.
Hay ý tưởng dùng chung nhà với người khác cũng trở thành điều bình thường. Nếu bạn sử dụng các dịch vụ như “Couch surfing”, “Airbnb” bạn có thể cho những người du lịch trên toàn thế giới biết và đến thuê phòng trống trong gia đình bạn.
Có thể nói, nhờ mạng Internet, chúng ta có thể chia sẻ những không gian, vật dụng thừa thãi trong nhà cho những người cần đến chúng.
Nguy cơ bị giết chết trong chính đồ đạc trong nhà
Cuối cùng, để kết thúc chương này, tôi xin nói đến Đại thảm họa động đất ở phía Đông Nhật Bản.
Đại thảm họa động đất Đông Nhật Bản đã tác động đến tất cả các mặt trong giá trị quan của tôi, làm thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của tôi về “đồ đạc”.
Chắc bạn cũng biết tác giả Yururimai, tác giả của bộ truyện tranh nổi tiếng Trong nhà tôi, chẳng có gì cả. Cô còn có bút danh là Sutehentai. Các bức tranh về căn nhà trống rỗng của cô đã ảnh hưởng rất lớn đến tôi. Ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi về cuốn truyện đó là tất cả những đồ đạc chất trong nhà đều sẽ trở thành hung khí khi xảy ra động đất. Và chúng ta có nguy cơ bị giết chết bởi chính những món đồ mà chúng ta vẫn rất trân trọng. Hay khi có sóng thần thì những món đồ đấy cũng sẽ bị cuốn trôi đi và bị phá hỏng.
Đại thảm họa động đất Đông Nhật Bản được gọi là thảm họa nghìn năm mới có một lần. Tính đến năm 2000, ở Nhật Bản chỉ có 20 người khoảng 100 tuổi đang sống. Và sau thảm họa nghìn năm mới có một lần ấy, trong số hai mươi cụ ông cụ bà đó, có hai người đã bị chôn vùi trong động đất. Theo bạn, đấy là con số lớn hay nhỏ?
Đến đây, tôi xin nhắc lại các điều kiện để hình thành trào lưu lối sống tối giản một lần nữa.
- Lượng thông tin, vật dụng tăng lên quá mức.
- Sự phát triển của vật dụng và dịch vụ, chúng ta không cần quá nhiều đồ dùng vẫn có thể hoàn thành công việc.
- Thảm họa động đất sóng thần phía Đông Nhật Bản.
Khi nhìn vào điều này, ta có thể thấy, lối sống tối giản được hình thành như một lẽ tất nhiên vậy.
Trở thành một người sống tối giản không đơn giản chỉ vì mơ ước về một cuộc sống đơn giản, mà còn vì những lý do rất thực tế khác. Đó chính là cảm nhận của tôi khi trở thành người sống tối giản.
Tại sao đồ đạc lại chất nhiều đến vậy?
Chúng ta sở hữu tất cả những món đồ mà mình mong ước
Trong chương này, tôi muốn nói với bạn về quá trình: “Vì sao chúng ta lại chất nhiều đồ đạc trong nhà”. Khi hiểu về quá trình này rồi, bạn sẽ dễ dàng hơn trong việc giảm bớt đồ đạc.
Trước đây, tôi hay sắm cho mình tất tần tật những đồ dùng cần thiết trong cuộc sống, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy cuộc sống đấy khác xa với cuộc sống mà tôi mong ước.
Con người luôn chìm đắm trong suy nghĩ: “Khác xa với lý tưởng”. Và khi nhìn vào thực tế không như trong mơ ấy, ta chỉ ôm trong lòng cảm giác bất hạnh mà thôi. Khi không có những thứ như mình mong muốn, tôi cũng cảm thấy bất hạnh như vậy.
Dù tôi có một căn phòng to với một chiếc
sô pha bọc da, hay một ban công rộng với mái che có thể tổ chức tiệc ngoài trời thì đấy vẫn không phải là một chung cư cao tầng có thể ngắm cảnh đêm trong thành phố. Lúc đấy, tôi chỉ thấy giấc mơ của mình chẳng thể thành sự thật được.
Nhưng thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại, thực ra giấc mơ của tôi đã hoàn toàn trở thành sự thật rồi. Tại sao lại như vậy, để tôi giải thích cho bạn nhé.
Ví dụ như trong công việc. Chúng ta đi phỏng vấn ở nhiều công ty và đi làm ở công ty trúng tuyển. Đó có thể không phải là nguyện vọng thứ nhất của bạn, thậm chí cũng chẳng phải nguyện vọng thứ hai, thứ ba. Công ty cũng không hoạt động trong lĩnh vực bạn muốn làm, thậm chí có thể bạn làm chỉ để trang trải cuộc sống mà thôi. Thế nên lúc nào bạn cũng ca thán về sếp, về công ty của bạn và trong đầu luôn nghĩ đến lúc chuyển việc. Tuy nhiên, khi đã gửi hồ sơ và đi phỏng vấn tức là bạn đã nghĩ: Mình muốn làm ở đây. Nếu nghĩ: “Tuyệt đối không muốn làm” thì bạn đã không đi phỏng vấn rồi. Có thể tại một thời điểm nào đó, bạn từng muốn làm việc trong công ty và khi nhận được thông báo trúng tuyển, chắc chắn bạn đã rất vui.
Ngôi nhà mà tôi đang sống cũng vậy. Tôi đã sống 10 năm trong ngôi nhà này, 10 năm trước tôi chỉ có tâm nguyện là làm thế nào cũng phải chuyển đến đây, nó là ngôi nhà mà tôi đã phải kiếm rất lâu mới thấy. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ rõ mình đã hạnh phúc đến thế nào khi được chuyển vào đây. Lúc đó tôi hạnh phúc vì tìm thấy ngôi nhà có thiết kế đầy đủ, tiện nghi chứ không phải vì giá tiền của nó. Thậm chí tôi còn thấy háo hức khi bắt đầu khám phá khu phố trong mơ này. Thế nhưng, 10 năm sống trong căn nhà này, tôi dần thấy khó chịu với sự chật chội, cũ kỹ của căn phòng. Giấc mơ 10 năm trước của tôi đã trở thành hiện thực rồi, nhưng tại sao tôi lại luôn cảm thấy bất mãn đến vậy?
Điều này cũng đúng với mấy đồ dùng của tôi.
Ví dụ như quần áo. Trước đây lúc nào tôi cũng có cảm giác: “Không còn bộ nào để mặc ra ngoài nữa”.
Vào ngày nghỉ là tôi là dành trọn một ngày để mua sắm. Mặc dù người đã mệt rã rời, nhưng tôi vẫn không ngừng nhét những bộ quần áo mình thích vào giỏ hàng. Khi về nhà, tôi diện thử từng bộ một và tự ngắm trước gương. Ngày hôm sau, khi lần đầu diện mấy bộ mới mua ra ngoài, tôi cảm thấy thật tự tin và thích thú. Có lẽ lúc đó tôi chỉ có một nguyện vọng là có trong tay tất cả những bộ quần áo yêu thích dù phải trả bao nhiêu chăng nữa. Và quả thực là những bộ quần áo tôi thích thì chất đầy thành núi, ấy thế mà lúc nào tôi cũng tự thấy là “chẳng còn bộ nào để mặc ra ngoài nữa”.
Cũng tương tự như vậy, hầu hết chúng ta đều thỏa được lòng mong ước của mình, nhưng tại sao chẳng bao giờ chúng ta cảm thấy đủ và luôn cảm thấy mình thật bất hạnh?
Tác hại của thói quen
Chắc câu trả lời này ai cũng hiểu được. Chúng ta đã “quen” với những món đồ mong ước mà mình có trong tay. Dần dần, “thói quen” sẽ trở thành “điều hiển nhiên”, và cuối cùng ta sẽ cảm thấy “chán ngấy”.
Bạn mới mua một chiếc váy. Lần đầu tiên mặc nó, bạn cảm thấy thật thích, thật hạnh phúc. Nhưng sau năm lần mặc, bạn cảm thấy “quen” thuộc và cảm giác hạnh phúc vơi dần đi. Sau 10 lần mặc, chiếc váy thành một thứ “bình thường” trong tủ quần áo của bạn. Và sau 50 lần mặc nó, bạn cảm thấy chán ngấy rồi. Theo quá trình từ quen thuộc đến bình thường rồi chán ngấy ánh sáng lấp lánh của mong ước được thực hiện cũng dần biến thành màu đen, món đồ cũng theo đó mà trở thành thứ chẳng đáng để ý đến. Đó chính là chu trình từ quen thuộc đến chán nản.
Mặc dù tất cả mong muốn của chúng ta đều thành hiện thực, nhưng do quá trình biến đổi từ quen thuộc đến chán nản kể trên mà ta chẳng bao giờ vừa lòng với những gì đang có.
Tóm lại, nếu không có cảm giác quen thuộc thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục thấy hạnh phúc với những đồ dùng ưa thích của mình. Nếu cảm thấy thỏa mãn với những món đồ đang có, thì chúng ta sẽ không tích thêm đồ mới nữa. Có thể thấy, cảm giác quen thuộc này nguy hiểm đến dường nào.
Tại sao con người chỉ luôn muốn những thứ mới mẻ?
Khi nói về cảm giác quen thuộc này, trước hết ta cần phải nhìn nhận lại cơ cấu cảm nhận của con người. Có thể đây là một câu chuyện hơi lằng nhằng, nhưng nó là một chủ đề lớn trong cuốn sách này nên tôi hi vọng bạn sẽ chú ý tới nó.
Bản chất của hệ thần kinh con người là cơ cấu tìm ra sự “thay đổi” giữa các kích thích. Đó là sự thay đổi khi chuyển từ kích thích này sang kích thích khác.
Tôi có thể đưa cho bạn một ví dụ dễ hiểu hơn. Mùa thu cũng là lúc mùa tắm biển đã kết thúc. Nhưng nhìn thấy biển, bạn đột nhiên lại có ý nghĩ: Ôi, biển xanh như mùa xuân, mình muốn tắm biển ở đây quá. Và thế là bạn cứ thế chạy xuống biển. Nhưng ngay lập tức bạn sẽ phải kêu lên: Ôi, lạnh quá! Vì nước lạnh hơn bạn tưởng rất nhiều. Lúc này hệ thần kinh của bạn đã tìm thấy sự chênh lệch giữa nhiệt độ trên bờ và nhiệt độ trong nước biển và tiếp nhận một kích thích là lạnh. Tuy nhiên, nếu ngâm mình một thời gian trong nước biển, bạn sẽ quen với kích thích này và sẽ nói: Ồ, nhưng mà để một lúc thì cũng ấm phết.
Trường hợp một người đang ngủ trên sô pha, một người khác tắt tivi đi thì ngay lập tức anh ta sẽ tỉnh lại và bảo: “Tôi đang xem mà” cũng giống như vậy. (Chắc chắn là người tắt tivi sẽ nghĩ: “Rõ ràng là đang ngủ mà!”).
Trong trường hợp này, ban đầu khi để tivi mở thì sẽ rất sáng, tiếng cũng rất to, thông thường sẽ rất khó ngủ. Nhưng qua một thời gian, người này sẽ “quen” với kích thích như vậy và có thể ngủ rất ngon. Thậm chí, khi người này đã quen với trạng thái này rồi, nếu đột nhiên tắt tivi, tức là không còn kích thích nữa, thì anh ta sẽ nhận ra sự khác biệt và chợt tỉnh lại.