“Lạy Chúa tôi! Chả lẽ điều mình đã đọc thấy trong chuyện đời các thánh, nói rằng con quỷ hiện hình thành đàn bà lại là thực… Đúng rồi, đây là giọng đàn bà. Một giọng nói dịu dàng, rụt rè và đáng yêu! Phỉ phui! – Ông nhổ nước bọt. – Không, mình tưởng thế thôi”. – Ông nói, rồi đi vào góc hầm, nơi kê một chiếc bàn cao để ảnh thánh, quỳ xuống bằng một động tác thành thạo quen thuộc và nhờ động tác đó, ông cảm thấy niềm an ủi và sự hài lòng. Ông quỳ xuống, tóc xõa xuống mặt và áp vầng trán đã trụi tóc xuống nền sàn ẩm ướt, lạnh lẽo. (Gió thổi trên sàn).
… Ông đọc thánh thi, cha Pimen già đã bảo ông rằng thánh thi giúp cho người ta thoát khỏi cảnh quỷ ám. Ông nhẹ nhàng vươn tấm thân gầy guộc nhẹ bẫng của mình trên đôi chân cứng cáp giật giật và định đọc tiếp, nhưng ông không đọc mà bất giác giỏng tai lắng nghe. Ông muốn nghe. Im lặng hoàn toàn, vẫn những giọt nước ấy tí tách rơi từ trên mái nhà xuống chiếc thùng gỗ nhỏ đặt ở một góc. Ngoài sân, sương mù và tuyết che lấp hết mọi vật. Lặng lẽ, lặng lẽ quá. Và bỗng nhiên có tiếng sột soạt ở cạnh cửa sổ và rõ ràng là có tiếng người nói – vẫn là giọng nói dịu dàng, rụt rè, chỉ ở người đàn bà hấp dẫn mới có được giọng nói như thế:
– Xin hãy mở cửa ra. Vì Chúa Kito…
Tưởng như tất cả máu huyết dồn vào tim và dừng lại đó. Ông không thở được nữa. “Chúa sẽ phục sinh và lập tức ban phát…”.
– Con không phải là quỷ đâu… – nghe rõ thấy cái miệng đang nói ấy mỉm cười. – Con không phải là ma quỷ, mà chỉ là một người đàn bà tội lỗi, bị lạc đường, không phải theo nghĩa bóng mà theo nghĩa đen (bà ta cười vang), con đã bị lạnh cóng rồi và xin được trú nhờ…
Ông áp mặt vào cửa kính. Ngọn đèn nhỏ rọi sáng và ánh lên khắp mặt kính. Ông áp lòng bàn tay vào hai bên mặt và nhìn ra. Sương mù, thân cây, và kia rồi, ở mé bên phải. Bà ta. Đúng rồi, bà ta, người đàn bà mặc áo choàng lông có lớp lông trắng dài, đội mũ lông, khuôn mặt đôn hậu, sợ hãi, rất dễ thương, bà ta đứng đó cách khuôn mặt ông chừng hai versoc[11], nghiêng về phía ông. Mắt họ gặp nhau và họ đã nhận ra nhau. Không phải là có lúc họ đã nhìn thấy nhau, họ chưa bao giờ gặp nhau cả, nhưng trong cái nhìn mà họ trao đổi cho nhau đó, họ (đặc biệt là ông) cảm thấy rằng họ biết rõ nhau, hiểu nhau. Sau cái nhìn đó, không thể nào còn nghi ngờ rằng đây là con quỷ, chứ không phải là một người đàn bà bình thường, đôn hậu, dễ thương và rụt rè.
– Bà là ai? Bà đến đây làm gì? – Ông hỏi.
– Xin cha hãy mở cửa ra đã, – bà ta nói vẻ độc đoán, đỏng đảnh. – Con lạnh cóng cả người. Con đã nói với cha là con bị lạc đường.
– Nhưng tôi là tu sĩ, là ẩn sĩ.
– Được rồi, cha cứ mở cửa ra đi, kẻo không thì hóa ra cha muốn con chết cóng ở dưới cửa sổ trong khi cha cầu kinh à.
– Ừ, nhưng sao bà… Con sẽ không ăn thịt cha đâu. Vì Chúa, xin cha hãy cho vào. Rốt cuộc con đã bị cóng rồi.
Bản thân bà ta bắt đầu hoảng sợ. Bà ta đã nói câu đó hầu như bằng cái giọng đẫm nước mắt.
Ông rời khỏi cửa sổ, nhìn lên ảnh Chúa Kito giữa vòng hoa gai góc: “Lạy Chúa, xin Người hãy giúp đỡ con, lạy Chúa, xin Người hãy giúp đỡ con”, – ông thốt lên, làm dấu và cúi gập người xuống, rồi bước chân về phía cửa ra vào, mở cửa ra buồng hiên. Ông mò mẫm tìm móc cửa trong buồng hiên và bắt đầu đẩy móc ra. Ông nghe thấy tiếng bước chân ở phía ngoài. Bà ta đi từ cửa sổ đến cửa ra vào. “Ối!” – Bỗng nhiên bà ta kêu thét lên.
Ông hiểu rằng bà ta đã giẫm phải vũng nước đọng ở ngưỡng cửa. Tay ông run lên và ông không tài nào nhấc nổi cái móc bị cánh cửa ép chặt.
– Cha làm sao thế, cho con vào đi. Con ướt hết cả người rồi. Con bị lạnh cóng. Cha nghĩ tới việc cứu rỗi linh hồn, còn con thì lạnh cóng.
Ông kéo cánh cửa về phía mình, nâng chiếc móc lên và không tính tới sự va đập, ông đẩy mạnh cánh cửa ra phía ngoài, đến nỗi đập phải người bà ta.
– Ôi, xin lỗi! – Ông nói, bỗng nhiên chuyển hoàn toàn sang cách đối đáp quen thuộc hồi xưa với các phu nhân.
Nghe tiếng “xin lỗi” đó bà ta mỉm cười. “A, thế ra ông ta còn chưa đến nỗi đáng sợ lắm”, – bà ta nghĩ.
– Không sao, không sao ạ. Cha tha lỗi cho con, – bà ta nói, đi ngang qua trước mặt ông. – Lẽ ra con chẳng bao giờ dám làm như thế này, nhưng đây là một trường hợp đặc biệt.
– Xin mời bà, – ông nói, để cho bà đi ngang qua. Mùi nước hoa thanh khiết sực nức, đã từ lâu ông không ngửi thấy, xộc vào mũi ông. Bà ta đi ngang qua buồng hiên vào buồng chính. Ông đóng sập cửa ra vào bên ngoài, không cài chốt, bước qua buồng hiên, rồi đi vào buồng chính.
“Lạy Chúa Jesu, đức Thánh con, xin Người hãy thương con là kẻ tội lỗi, lạy Chúa, xin Người hãy thương con là kẻ tội lỗi”, – ông đọc kinh không ngớt, và không chỉ đọc nhẩm mà bất giác môi cũng lập bập.
– Xin mời, – ông nói.
Bà ta đứng ở giữa phòng, nước ở trên mình chảy ròng ròng xuống sàn và bà ta ngắm nhìn ông. Cặp mắt bà ta cười.
– Xin Cha tha lỗi cho, vì con đã phá rối cảnh cô tịch của cha. Nhưng cha cũng thấy tình cảnh của con đấy. Chả là xe chúng con ra đi từ thành phố và con đã đánh cuộc là con sẽ đi một mình từ làng Vorobiovka trở về thành phố, nhưng tới đây thì con bị lạc đường, ấy thế là, giá con mà không lần tới được tu phòng của cha… – Bà ta bắt đầu nói dối. Nhưng vẻ mặt của ông khiến bà ta bối rối đến nỗi không thể nói tiếp được và bà ta đã im lặng. Bà ta hoàn toàn không ngờ ông lại như vậy. Ông không phải là một người đẹp trai như bà tưởng tượng, nhưng mắt bà ta vẫn thấy ông là đẹp. Mái đầu với những chùm tóc xoăn hoa râm và bộ râu, chiếc mũi dọc dừa thanh tú và cặp mắt rừng rực như hòn than khi ông nhìn thẳng, đã làm bà sửng sốt.
Ông thấy là bà ta nói dối.
– À, ra thế, – ông nói, ngước nhìn bà ta, rồi cụp mắt xuống. – Tôi sẽ vào trong kia, còn bà thì xin cứ tự nhiên.
Ông nhấc cây đèn nhỏ, châm nến và nghiêng người rất thấp chào bà, rồi bước vào căn phòng nhỏ xíu ở đằng sau vách ngăn, và bà nghe thấy ông bắt đầu xê dịch cái gì ở đó. “Chắc ông ta đang dùng cái gì đó kê ngăn lại để trốn tránh mình”, – bà nghĩ, mỉm cười, hất chiếc áo choàng ngắn không tay bằng lông chó trắng xuống, bắt đầu tháo chiếc mũ lông quấn vào tóc và chiếc khăn đan ở dưới mũ. Bà ta không hề bị ướt khi đứng dưới cửa sổ, và bà đã nói mình bị ướt chỉ cốt lấy cớ để ông cho vào nhà. Nhưng lúc ở cửa ra vào, đúng là bà đã giẫm phải vũng nước, chân trái của bà đã bị ướt đến tận mắt cá, chiếc giày cao cổ và chiếc ủng lõng bõng đầy nước. Bà ngồi lên giường ông – đó chỉ là tấm ván có phủ thảm lót – và bắt đầu cởi giày. Bà thấy tu phòng nhỏ này thật là đáng yêu. Buồng chật hẹp, chiều rộng ba arsin[12], chiều dài bốn arsin, sạch như lau như li. Trong buồng chỉ kê chiếc giường mà bà ngồi, phía trên giường là một giá nhỏ để sách. Trong góc buồng có chiếc bàn để ảnh thánh. Ở cửa ra vào có đinh treo áo choàng lông và áo lễ. Trên bàn để ảnh thánh là ảnh Chúa Kito giữa vòng mận gai và chiếc đèn nhỏ. Phảng phất mùi vị lạ của mỡ, mồ hôi và đất, bà vừa ý với tất cả mọi thứ, ngay cả mùi vị này.
Đôi chân ẩm ướt, đặc biệt là bên chân giẫm phải nước khiến bà không yên tâm, bà vội vã cởi giày, miệng không ngớt mỉm cười, vui mừng vì chẳng những mình đã đạt được mục đích, mà còn vì bà thấy mình đã làm cho người đàn ông có duyên, khác thường, hấp dẫn lạ lùng như ông phải bối rối. “Chà, ông ấy mà không đáp lời, thì cũng chẳng tai vạ quái gì”, – bà tự nhủ.
– Thưa cha Serghi! Thưa cha Serghi! Dạ, gọi tên cha thế phải không?
– Bà cần gì? – Ông khẽ đáp.
– Dạ, xin cha tha lỗi cho con vì đã phá rối cảnh cô tịch của cha. Nhưng quả thật con không làm thế nào khác được. Lẽ ra con ốm rồi đấy. Ngay lúc này con cũng chả biết mình ra sao. Nhưng con ướt hết cả, chân lạnh như cục băng.
– Bà tha lỗi cho, – giọng nói khẽ khàng đáp lại, – tôi chẳng giúp gì được cả.
– Không đời nào con lại làm phiền cha. Con chỉ trú nhờ đây đến rạng sáng thôi.
Ông không đáp. Và bà nghe thấy ông thì thào gì đó, rõ ràng là ông đang cầu nguyện.
– Cha không vào đây chứ ạ? – Bà ta mỉm cười hỏi. – Kẻo con còn phải cởi quần áo để hong cho khô.
Ông không đáp, tiếp tục đọc kinh bằng giọng đều đều ở sau vách.
“Đúng, đó là một con người”, – bà nghĩ, chật vật rút chiếc ủng cao cổ òm ọp nước. Bà kéo, nhưng không rút được chiếc ủng ra, và bà thấy buồn cười. Bà suýt bật lên cười thành tiếng, nhưng biết rằng ông nghe thấy tiếng cười của mình và tiếng cười đó tác động đến ông đúng như ý bà mong muốn, nên bà cười to hơn, và tiếng cười vui vẻ, tự nhiên, đôn hậu đó quả thực đã tác động đến ông đúng như ý bà mong muốn.
“Phải, có thể yêu một con người như thế này. Cặp mắt ấy, và khuôn mặt giản dị, cao thượng – dù ông có lẩm bẩm cầu kinh gì đi nữa – trông say mê như thế! – Bà nghĩ. – Ông không đánh lừa được bọn đàn bà chúng tôi đâu. Lúc ghé khuôn mặt vào sát cửa kính, ông ta đã nhìn thấy mình, đã hiểu, và đã nhận ra. Cặp mắt ông rực sáng và gây ấn tượng mạnh. Ông ta yêu thích và thèm muốn mình. Phải rồi, ông ta đã thèm muốn”, – bà nói, rốt cuộc bà cũng đã tháo được ủng, giày cao cổ và đang loay hoay tháo bít tất. Muốn tháo được những đôi bít tất dài bằng láng đó phải vén váy lên. Bà ta cảm thấy xấu hổ và lên tiếng:
– Cha đừng vào nhé!