Bell nhìn ra bên cửa sổ, nét mặt gượng gạo. “Tại sao Mason lại giết Billy?”
“Có thể hắn tính toán rằng Billy sẽ khiếp sợ và khai ra sự thật. Hoặc có thể thằng bé tỉnh lại khi Mason đến và nói nó chán ngấy rồi, nó không muốn tiếp tục cái thỏa thuận kia nữa.”
“Vậy đây là lý do tại sao anh muốn Mason rời khỏi đây… mấy phút trước. Tôi đã băn khoăn không biết như thế là thế nào. Chúng ta sẽ chứng minh tất cả chuyện này ra sao đây, Lincoln?”
“Tôi có các dấu găng tay cao su trên chiếc xẻng. Tôi có chỗ xương, chúng cho phản ứng dương tính với toxaphene nồng độ cao. Tôi muốn cử một thợ lặn tìm kiếm chiếc xe của gia đình nhà Hanlon dưới sông Paquenoke. Một số chứng cứ sẽ được khôi phục lại – thậm chí sau năm năm. Rồi chúng ta phải lục soát nhà Billy xem ở đó có tiền mặt để lần đến Mason được không. Và chúng ta cũng lục soát nhà Mason nữa. Sẽ là một vụ khó khăn đấy.” Rhyme mỉm cười yếu ớt. “Nhưng tôi giỏi, Jim ạ. Tôi có thể xử lý được.” Rồi nụ cười của anh tắt dần. “Nhưng nếu Mason không chuyển chứng cứ sang chống lại Henry Davett, việc lập một vụ chống lại ông ta sẽ khó khăn đấy. Tất cả những gì tôi có chỉ là thứ kia thôi.” Rhyme hất đầu về phía chiếc bình nhựa đựng chừng tám ounce thứ chất lỏng màu lợt.
“Cái gì thế?”
“Toxaphene nguyên chất. Lucy đã lấy được một mẫu từ nhà kho của Davett cách đây nửa tiếng đồng hồ. Cô ấy bảo ở đằng đấy phải có tới chục nghìn ga-lông hóa chất này. Nếu chúng ta xác định được thành phần của loại hóa chất đã giết chết gia đình nhà Garrett phù hợp với thành phần của cái thứ đang đựng trong chiếc bình kia thì chúng ta có thể thuyết phục ủy viên công tố tiến hành việc khởi tố Davett.”
“Nhưng Davett đã giúp đỡ chúng ta tìm thấy Garrett.”
“Tất nhiên. Tìm thấy Garrett – và Mary Beth – càng nhanh chóng càng tốt là mối quan tâm của ông ta. Davett là kẻ muốn cô gái chết hơn ai hết.”
“Mason”, Bell lẩm bẩm, lắc đầu. “Tôi đã biết anh ta nhiều năm… Anh cho là anh ta nghi ngờ à?”
“Anh là người duy nhất tôi nói chuyện này. Tôi thậm chí không nói chuyện này với Lucy – tôi chỉ đề nghị cô ấy làm vài việc đi đi lại lại hộ tôi thôi. Tôi sợ nhỡ ai nghe trộm được và việc đến tai Mason hoặc Davett. Thị trấn này, Jim ạ, nó là một tổ ong bắp cày. Tôi không biết phải tin tưởng ai.”
Bell thở dài. “Làm sao anh có thể chắc chắn đó là Mason?”
“Vì Culbeau và đồng bọn xuất hiện tại ngôi nhà gỗ ngay sau khi chúng ta xác định được vị trí của nó. Và Mason là kẻ duy nhất biết thông tin… ngoài tôi, anh và Ben. Hắn ắt đã gọi điện cho Culbeau cung cấp thông tin. Vậy… chúng ta hãy gọi điện cho cảnh sát bang, yêu cầu một thợ lặn của họ xuống đây kiểm tra Bến tàu kênh Nước đen. Chúng ta phải lấy lệnh khám xét nhà Billy và cả nhà Mason nữa.”
Rhyme thấy Bell gật đầu. Nhưng thay cho việc đi đến chỗ máy điện thoại, anh ta bước tới trước cửa sổ và đẩy cho cánh cửa đóng lại. Rồi anh ta lại bước tới trước cửa ra vào, mở cửa, nhìn ra, rồi đóng lại.
Quay ổ khóa chìm.
“Jim, anh đang làm gì vậy?”
Bell do dự, rồi bước một bước về phía Rhyme.
Nhà hình sự học nhìn lần nữa vào mắt viên cảnh sát trưởng và vội vã cắn ống điều khiển giữa hai hàm răng. Anh thổi vào nó và chiếc xe lăn bắt đầu tiến lên. Nhưng Bell bước ra phía sau anh, dứt đứt phựt dây ắc quy. Chiếc Storm Arrow tiến lên chừng mươi phân, và dừng lại.
“Jim”, Rhyme thì thào. “Không phải cả anh nữa chứ?”
“Anh đoán đúng đấy.”
Rhyme nhắm mắt lại. “Không, không”, anh thì thầm. Đầu anh gục xuống. Nhưng chỉ là vài milimét thôi. Như hầu hết những con người vĩ đại, cử động thể hiện sự thất bại của Lincoln Rhyme cũng không dễ dàng gì mà nhận ra được.
Phần 5
THỊ TRẤN VẮNG BÓNG TRẺ
CHƯƠNG BỐN MƯƠI HAI
Mason Germain và gã da đen trông rầu rĩ chậm chạp đi qua con hẻm bên cạnh khu tạm giam của Tanner’s Corner.
Gã đàn ông toát mồ hôi, bực bội đập một con muỗi. Gã lầm bầm gì đó và chùi bàn tay dài vào mái tóc ngắn ngủn kỳ quái.
Mason cảm thấy muốn chọc tức gã vô cùng nhưng kiềm chế được.
Gã đàn ông có vóc người cao và kiễng chân lên là gã nhìn qua được ô cửa sổ của khu tạm giam. Mason trông thấy gã đi đôi bốt màu đen thấp cổ – đóng bằng da sơn bóng loáng – vì lý do nào đó đôi bốt ấy làm tăng thêm sự khinh miệt của viên cảnh sát đối với cái kẻ từ nơi khác tới này. Anh ta tự hỏi không biết gã đã bắn bao nhiêu người rồi.
“Cô ta ở trong kia”, gã đàn ông nói. “Một mình.”
“Chúng tôi đang giam Garrett ở phía bên kia.”
“Anh hãy vào theo lối đằng trước. Liệu có thể chuồn ra qua lối đằng sau không?”
“Tôi là cảnh sát, nhớ chứ? Tôi có chìa khóa. Tôi có thể mở cửa sau”, Mason nói với giọng cạnh khóe, lại tự hỏi không biết thằng cha này có dở hơi hay không.
Nhưng anh ta cũng được đáp trả bằng giọng cạnh khóe. “Tôi chỉ đang hỏi liệu có cửa ở đằng sau hay không. Đây là điều tôi không biết, tôi chưa bao giờ tới cái thị trấn lầy lội này.
“Ồ. Có, có cửa.”
“Ờ, thế thì đi thôi.”
Mason nhận ra gã đàn ông đã đang cầm súng trong tay mà anh ta không trông thấy khẩu súng được rút ra lúc nào.
* * *
Sachs ngồi trên chiếc ghế băng trong phòng giam, như bị thôi miên trước sự chuyển động của một con ruồi.
Đây là ruồi gì? Cô băn khoăn tự hỏi. Garrett sẽ biết ngay lập tức. Cậu ta là cả kho kiến thức. Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu óc cô: sẽ có lúc kiến thức của một đứa trẻ về một vấn đề vượt kiến thức của cha mẹ nó. Chắc chắn sẽ rất kỳ diệu, rất đáng phấn khởi, khi biết rằng mình đã tạo ra cái sinh vật giỏi giang hơn mình này. Cũng sẽ cảm thấy xấu hổ nữa.
Một kinh nghiệm mà cho tới bây giờ Sachs chưa từng trải qua.
Cô lại suy nghĩ về cha cô. Người đã làm gia tăng tội phạm. Suốt những năm phục vụ trong lực lượng cảnh sát súng ông không nhả đạn bao giờ. Tự hào về cô con gái bao nhiêu, ông cũng lo lắng bấy nhiêu vì sự say mê của cô đối với súng đạn. “Bắn là biện pháp cuối cùng.” Ông vẫn hay nhắc nhở cô.
Ôi, Jesse… Tôi có thể nói gì với anh đây?
Tất nhiên, không thể nói gì cả. Tôi không thể nói gì cả. Anh đã ra đi rồi.
Sachs cho là cô trông thấy một cái bóng bên ngoài ô cửa sổ khu tạm giam. Nhưng cô phớt lờ nó, và ý nghĩ của cô chuyển sang Rhyme.
Cô nhớ lại lần cách đây mấy tháng, nằm cùng nhau trên chiếc giường nệm khí lỏng sang trọng trong nhà anh ở Manhattan, họ xem bộ phim Romeo và Juliet đặc sắc của Baz Luhrmann, một kịch bản hiện đại lấy bối cảnh Miami. Đối với Rhyme, cái chết luôn luôn lởn vởn xung quanh và xem những cảnh cuối cùng của bộ phim, Amelia Sachs nhận ra rằng, giống như các nhân vật của Shakespeare, cô và Rhyme nếu nhìn nhận theo cách nào đó cũng là đôi tình nhân xấu số. Và một ý nghĩ nữa lúc ấy đã vụt lướt qua đầu óc cô: anh và cô cũng sẽ cùng nhau giã từ cuộc đời.
Sachs chẳng dám chia sẻ ý nghĩ này với Lincoln Rhyme, một người theo chủ nghĩa duy lý, một người không có tế bào đa cảm nào trong bộ não cả. Nhưng khi ý nghĩ này xuất hiện rồi, nó lưu lại vĩnh viễn trong tâm trí cô và vì sao đó mà mang đến cho cô niềm an ủi hết sức to lớn.
Tuy nhiên, bây giờ, cô thậm chí không thể tìm thấy sự khuây khỏa trong cái ý nghĩ kỳ cục này. Không, bây giờ – do cô – họ sẽ sống riêng rẽ và sẽ chết riêng rẽ. Họ sẽ…
Cánh cửa khu phòng giam mở toang và một cảnh sát trẻ bưóc vào. Sachs nhận ra anh ta. Đó là Steve Farr, em rể Jim Bell.
“Này cô kia”, anh ta gọi.
Sachs gật đầu chào. Rồi cô để ý thấy hai điều ở Farr. Thứ nhất là anh ta đeo một chiếc đồng hồ hiệu Rolex giá trị bằng nửa năm lương của một cảnh sát điển hình ở Bắc Carolina.
Thứ hai là anh ta đeo một khẩu súng bên sườn, bao không đóng khóa.
Mặc dù có tấm biển gần phía ngoài cánh cửa mở vào khu phòng giam. CẤT TẤT CẢ VŨ KHÍ TRONG KÉT SẮT TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO KHU PHÒNG GIAM.
“Cô thế nào?” Farr hỏi.
Sachs nhìn anh ta, không có phản ứng gì.
“Hôm nay lại im lặng, hử? Chà, thưa cô, tôi mang tin tức tốt lành đến cho cô đây. Cô được tự do ra đi.” Farr búng một bên tai vểnh.
“Tự do? Ra đi?”
Farr lục tìm chìa khóa.
“Phải. Người ta đã đi đến kết luận rằng phát súng của cô chỉ là tai nạn. Cô hoàn toàn có thể rời khỏi đây.”
Sachs chăm chú quan sát bộ mặt Farr. Anh ta không nhìn vào cô.
“Thế giấy rút lại lời buộc tội thì sao?”
“Là cái gì vậy?”, Farr hỏi.
“Không có ai đã bị buộc tội hình sự lại có thể được thả khỏi nơi giam giữ mà không có giấy rút lại lời buộc tội do ủy viên công tố ký.”
Farr mở khóa phòng giam và đứng lùi lại, bàn tay rờ rờ gần báng súng. “Ồ, có thể đó là cách các cô làm ở thành phố lớn. Nhưng ở dưới này chúng tôi thoải mái hơn rất nhiều. Người ta hay nói là dân miền Nam chúng tôi chậm tiến hơn, cô biết đấy. Tuy nhiên, không phải vậy. Không, thưa cô. Chúng tôi làm việc thực sự hiệu quả hơn.”
Sachs vẫn ngồi. “Tôi có thể hỏi tại sao anh mang vũ khí vào khu phòng giam được chứ?”
“Ồ, cái này hả? Farr vỗ vỗ khẩu súng. “Chúng tôi không có các quy tắc nghiêm ngặt lắm về những chuyện như vậy. Thôi nào. Cô được tự do rời khỏi đây. Phần lớn người ta sẽ nhảy cẫng lên trước tin tức ấy.” Anh ta hất đầu về phía cửa sau khu tạm giam.
“Ra qua cửa sau?”, Sachs hỏi.
“Tất nhiên rồi.”
“Anh không thể bắn vào lưng một tù nhân đang bỏ chạy. Như thế là giết người.”
Farr chậm rãi gật đầu.
Bọn họ bố trí kịch bản ra sao nhỉ? Sachs băn khoăn tự hỏi. Có ai khác ở bên ngoài cánh cửa kia sẽ thực sự nổ súng không? Có thể. Farr tự đập đầu mình rồi kêu cứu. Bắn một phát lên trần. Bên ngoài, một người nào đó – có thể là một công dân “đầy lo lắng” – khẳng định rằng anh ta đã nghe thấy tiếng súng nổ và cho rằng Sachs có vũ khí, mới nhả đạn vào cô.
Cô không nhúc nhích.
“Nào, đứng lên và biến đi.” Farr rút khẩu súng ra khỏi bao. Sachs chậm chạp đứng lên.
Anh và em, Rhyme…
* * *