Cô gái lúc này bảo Rhyme: “Tôi chỉ muốn cảm ơn ông. Tôi không biết tôi sẽ làm gì nếu không có ông. Tôi xin lỗi về chuyện bạn ông, cô cảnh sát ấy. Nếu không nhờ cô ây thì bây giờ tôi chết rồi, tôi chắc chắn như thế. Hai gã đàn ông đó đang định… chà, ông có thể hình dung ra. Hãy cảm ơn cô ấy hộ tôi”.
“Tôi sẽ nói.” Rồi Rhyme hỏi: “Cô làm ơn trả lời một chuyện được không?”.
“Chuyện gì?”
“Tôi biết cô đã cung cấp lời khai làm chứng với Jim Bell, nhưng tôi chỉ biết về những gì xảy ra tại Bến tàu kênh Nước đen thông qua các chứng cứ. Và một số chứng cứ không được rõ ràng. Liệu cô có thể kể lại cho tôi nghe?”
“Tất nhiên… Tôi đang ở dưới bờ sông, phủi đất cát khỏi những di vật tôi phát hiện được. Tôi ngẩng nhìn và trông thấy Garrett. Tôi rất bực bội. Tôi chẳng muốn bị quấy rầy. Bất cứ khi nào trông thấy tôi hắn cũng xán ngay lại và bắt đầu trò chuyện y như chúng tôi là bạn thân không bằng.
Buổi sáng hôm ấy hắn ở trong tâm trạng kích động. Hắn nói những câu đại loại như: “Chị đáng lẽ không nên đến đây một mình, nguy hiểm lắm, nhiều người đã chết tại Bến tàu kênh Nước đen.” Những câu đại loại vậy. Hắn khiến tôi nổi khùng. Tôi bảo hắn để tôi yên. Tôi phải làm việc. Hắn tóm tay tôi và cố gắng kéo tôi rời khỏi đấy. Rồi Billy Stail từ rừng đi ra, cậu ta quát: “Đồ con hoang” hay cái gì đó và bắt đầu đánh Garrett bằng xẻng, nhưng gã giật lấy xẻng từ tay Billy, đập chết cậu ta. Sau đó, gã lại tóm tay tôi bắt buộc tôi trèo vào thuyền và đưa tôi tới ngôi nhà gỗ. ”
“Garrett đã rình rập cô bao lâu rồi?”
Mary Beth cười to. “Rình rập? Không, không, ông đã nói chuyện với mẹ tôi, tôi cuộc là thế. Sáu tháng trước, tôi vào trung tâm thị trấn và trông thấy mấy đứa bạn cùng trường hắn đang xử lý hắn. Tôi đuổi mấy đứa đi. Việc đó khiến tôi trở thành bạn gái hắn, tôi nghĩ thế. Hắn bám theo tôi khắp nơi nhưng tất cả chỉ vậy thôi. Kiểu như ngưỡng mộ tôi từ xa. Tôi từng chắc chắn rằng hắn vô hại.” Nụ cười của cô gái tắt dần. “Cho tới hôm vừa rồi.” Mary Beth liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Tôi phải đi. Nhưng tôi muốn hỏi ông – lý do thứ hai để tôi tới đây – là nếu ông không cần sử dụng làm chứng cứ nữa, liệu tôi có thể lấy chỗ xương còn lại không?”
Rhyme, ánh mắt lúc bây giờ đang đăm đăm nhìn ra qua cửa sổ khi những ý nghĩ về Amelia Sachs lén lút quay lại đầu óc anh, chậm chạp quay sang Mary Beth.
“Xương nào?”, anh hỏi.
“Ở Bến tàu kênh Nước đen ấy? Nơi Garrett bắt cóc tôi ấy?”
Rhyme lắc đầu. “Cô muốn nói điều gì vậy?”
Mary Beth nhăn mặt lo lắng. “Chỗ xương – những di vật tôi đã tìm thấy. Tôi đang đào nốt thì Garrett bắt cóc tôi. Chúng rất quan trọng… Ông không có ý bảo là chúng bị thất lạc đấy chứ?”
“Chẳng ai thu được cái xương nào tại hiện trường vụ án cả”, Rhyme nói. “Báo cáo chứng cứ không hề đề cập tới.”
Mary Beth lắc đầu. “Không, không… Chúng không thể mất được!”
“Xương kiểu gì?”
“Tôi đã tìm thấy một số hài cốt của Những Người Thực Dân Biến Mất ở Roanoke. Từ cuối thế kỷ XVI.”
Kiến thức lịch sử của Rhyme hầu như chỉ hạn chế ở thành phố New York. “Vấn đề này không quen thuộc lắm đối với tôi.”
Tuy nhiên, khi Mary Beth trình bày về những người tới định cư trên đảo Roanoke thuở xa xưa và việc họ biến mất, anh gật đầu. “Tôi có nhớ ra gì đó từ hồi học phổ thông. Tại sao cô cho rằng đó là hài cốt của họ?”
“Những cái xương hết sức lâu đời rồi, đã mục, và chúng không ở trong một khu vực chôn cất của những người Algonquin cũng không ở trong một nghĩa địa của những người thực dân. Chúng chỉ được vùi xuống đất mà không có bất cứ sự đánh dấu nào. Đây là cách đặc trưng các chiến binh hay làm đối với xác kẻ thù. Đây…” Mary Beth mở ba lô. “Tôi đã gói được vài cái trước khi Garrett đưa tôi đi.” Cô nhấc vài cái xương đang gói trong giấy bóng bọc thực phẩm ra, chúng đen sì và mục nát. Rhyme nhận ra một cái xương quay, một mảnh xương bả vai, một đoạn xương đùi và một cái xương chậu.
“Còn cả chục cái nữa”, Mary Beth nói. “Đây là một trong những phát hiện lớn nhất lịch sử nước Mỹ. Chúng rất có giá trị. Tôi phải tìm lại chúng.”
Rhyme đăm đăm nhìn cái xương quay – một trong hai xương cẳng tay. Lát sau, anh ngẩng lên.
“Cô có thể đi ngược dãy hành lang đến văn phòng Cảnh sát trưởng được không? Hỏi Lucy Kerr và bảo cô ấy xuống đây một phút.”
“Về việc những cái xương à?”, Mary Beth hỏi.
“Có thể.”
* * *
Đó là câu mà cha Amella Sachs hay nói: “Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.”
Câu này có nhiều ý nghĩa. Nhưng trên hết nó là lời khẳng định triết lý chung của hai người, cha và con gái. Cả hai đều hâm mộ những chiếc xe hơi tốc độ cao, đều say mê công việc của cảnh sát đường phố, sợ hãi những không gian khép kín và những cuộc đời chẳng đi tới đâu.
Nhưng bây giờ thì người ta đã tóm được cô.
Tóm được vĩnh viễn.
Và những chiếc xe quý giá của cô, cuộc đời làm cảnh sát quý giá của cô, cuộc đời của cô với Rhyme, tương lai của cô với những đứa trẻ… tất cả đã bị hủy hoại.
Trong phòng giam, Sachs bị tẩy chay. Những cảnh sát mang thức ăn và cà phê vào cho cô không nói gì với cô cả, chỉ lạnh lùng nhìn cô trừng trừng. Rhyme đang mời một luật sư từ New York bay xuống nhưng, giống như hầu hết các sĩ quan cảnh sát, Sachs cũng thông thạo luật hình sự chẳng kém gì các luật sư. Cô biết rằng, bất kể có thương lượng ra sao giữa một người nhiều kinh nghiệm từ Manhattan đến và ủy viên công tố quận Paquenoke, cuộc đời mà cô từng sống kết thúc rồi. Trái tim cô tê liệt y như cơ thể của Rhyme vậy.
Trên sàn, một con côn trùng cần mẫn bò từ bức tường này sang bức tường khác. Nhiệm vụ của nó là gì? Ăn, ghép đôi, hay tìm chỗ trú ngụ?
Nếu ngày mai tất cả mọi người trên trái đất biến mất, thế giới vẫn tiếp tục tồn tại bình thường. Nhưng nếu côn trùng biến mất thì đời sống sẽ kết thúc nhanh chóng – nói chung, trong vòng một thế hệ. Cây cối sẽ chết hết, rồi tới các con vật, và trái đất sẽ một lần nữa biến thành khối đá tảng khổng lồ.
Cánh cửa dẫn sang văn phòng chính mở toang. Một cảnh sát mà Sachs không nhận ra là ai đứng đó. “Cô có điện thoại.” Anh ta mở cửa phòng giam, còng tay cô và đưa cô tới trước chiếc bàn nhỏ bằng sắt bên trên đặt máy điện thoại. Mẹ cô gọi, cô đồ là thế. Chắc là Rhyme đã gọi cho bà và thông báo với bà tin tức này. Hoặc người bạn thân nhất của cô ở New York, Amy.
Nhưng khi cô nhấc ống nghe lên, đôi còng dày kêu leng keng, cô nghe thấy giọng Rhyme. “Ở đó thế nào hả Sachs? Có mát mẻ không?”
“Không sao”, cô lẩm bẩm.
“Luật sư sẽ tới đây đêm nay. Ông ta giỏi đấy. Ông ta đã làm về luật hình sự hai mươi năm. Ông ta từng cãi trắng án cho một đối tượng vướng vào một vụ đột nhập ăn trộm do anh buộc tội. Em biết là bất cứ ai làm được như thế đều phải giỏi.”
“Rhyme, thôi nào. Tại sao còn mất công? Em là một người từ nơi khác đến đã cướp một tên sát nhân ra khỏi nhà giam và giết chết một cảnh sát địa phương. Tình huống vô vọng hết mức rồi.”
“Chúng ta sẽ nói về vụ của em sau. Anh phải hỏi em một việc khác. Em đã ở hai ngày với Garrett. Em và hắn có nói chuyện gì không?”
“Tất nhiên là có.”
“Chuyện gì?”
“Em không biết nữa. Côn trùng. Rừng, đầm lầy.” Tại sao anh lại hỏi cô những điều này? “Em không nhớ.”
“Anh cần em nhớ ra. Anh cần em kể cho anh nghe tất cả những chuyện hắn đã nói.”
“Tại sao phải mất công, Rhyme?”, Sachs nhắc lại.
“Thôi nào, Sachs. Hãy chiều ý một kẻ què quặt già nua, được không?”
CHƯƠNG BỐN MƯƠI
Lincoln Rhyme ngồi một mình trong la-bô tạm thời, đăm đăm nhìn các bảng chứng cứ.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG TRỰC TIẾP – BẾN TÀU KÊNH NƯỚC ĐEN
Khăn giấy Kleenex thấm máu
Bụi đá vôi
Nitrate
Phốt phát
Ammonia
Chất tẩy
Camphone
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNC GIÁN TIẾP PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp gia đình
Ảnh chụp Mary Beth
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khóa chưa xác định
Dầu hỏa
Ammonia
Nitrate
Camphene
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – MỎ ĐÁ
Túi vải bao bì cũ – Không đọc được tên in bên trên
Ngô – Thức ăn chăn nuôi?
Muội than trên túi
Nước đóng chai nhãn hiệu Deer Park
Bích quy phó mát nhãn hiệu Planters
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Rồi Rhyme nghiên cứu tấm bản đồ, ánh mắt lần theo dòng chảy của sông Paquenoke kể từ lúc nó khởi nguồn từ đầm lầy Sầu Thảm rồi đi qua Bến tàu kênh Nước đen và uốn khúc về phía tây.
Có một chỗ gồ lên trên mặt giấy cứng của tấm bản đồ – một nếp gấp khiến người ta cứ muốn vuốt cho nó phẳng.
Đó là cuộc đời mình trong mấy năm qua, Lincoln Rhyme tự nhủ thầm: những chỗ ngứa không thể gãi được.
Có thể, mình sẽ sớm làm được việc ấy. Sau khi Tiến sĩ Weaver cắt ra, khâu lại và nhét đầy vào mình các tế bào non trẻ và kỳ diệu của cá mập… Có thể khi đó mình sẽ đưa được bàn tay trên những tấm bản đồ giống như tấm bản đồ này, vuốt phẳng một nếp gấp.
Một động tác vô ích, không cần thiết, thực sự là vậy. Nhưng là một chiến thắng mới huy hoàng làm sao.
Có tiếng bước chân. Đi giày cao cổ, Rhyme suy luận qua âm thanh. Với gót da cứng. Khoảng cách giữa các bước chân cho thấy đây phải là một người đàn ông cao lớn. Anh hy vọng đây là Jim Bell và đúng là anh ta thật.
Thận trọng thổi vào ống điều khiển, Rhyme quay khỏi bức tường.