Không có thời gian để lấy lại. Chạy thôi! Mary Beth nhảy phốc qua nhà truyền giáo trước khi gã kịp xoay người nhả đạn, và cô guồng chân chạy ra ngoài.
Thế là xong!
Thế là cuối cùng cũng thoát khỏi cái chốn khốn kiếp này!
Mary Beth chạy về phía tay trái, quay lại lối mòn mà kẻ bắt cóc đã đưa cô đi qua cách đây hay ngày, cái lối mòn tiếp giáp với một cái vũng Carolina lớn. Đến góc ngôi nhà gỗ, cô rẽ, nhằm hướng cái vũng.
Và lao thẳng vào vòng tay của Garrett Hanlon.
“Không!”, Mary Beth kêu lên. “Không!”
Gã trai chiếu ánh mắt tức giận. Gã cầm một khẩu súng. “Chị ra ngoài bằng cách nào? Bằng cách nào?” Gã tóm chặt cổ tay Mary Beth.
“Để cho tao đi!” Cô cố gắng rút tay, nhưng nắm tay Garrett cứng như thép.
Đi cùng Garrett là một phụ nữ nét mặt nghiêm trang, xinh đẹp, với mái tóc đỏ buông dài. Cũng giống Garrett, quần áo chị ta trông hết sức bẩn thỉu. Người phụ nữ câm lặng, ánh mắt mờ đục. Xem chừng chị ta không hề ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của cô gái. Chị ta trông như đờ đẫn vì thuốc.
“Mẹ kiếp.” Giọng nhà truyền giáo cất lên. “Đồ chó cái chết giẫm!” Gã rẽ ở góc ngôi nhà và thấy Garrett đang chĩa súng vào mặt gã. Gã trai thét: “Mày là ai? Mày làm gì ở nhà tao? Mày làm gì Mary Beth?”.
“Nó tấn công chúng tao! Hãy nhìn bạn tao xem. Hãy nhìn…”
“Vứt cái kia đi”, Garrett gầm lên, hất đầu chỉ khẩu súng trong tay nhà truyền giáo. “Vứt nó đi, nếu không tao sẽ giết mày! Tao sẽ giết. Tao sẽ bắn bay cái sọ khốn kiếp của mày!”
Nhà truyền giáo nhìn bộ mặt và khẩu súng của gã trai. Garrett lên đạn. “Lạy Chúa…” Nhà truyền giáo thả khẩu súng của gã xuống cỏ.
“Bây giờ thì hãy cút khỏi đây! Cút.”
Nhà truyền giáo quay đầu, rồi đỡ Tom đứng lên, hai gã lảo đảo đi về phía rừng.
Garrett bước về phía cửa trước của ngôi nhà gỗ, kéo theo Mary Beth. “Vào nhà! Chúng ta phải vào nhà. Bọn họ đang đuổi theo chúng ta. Chúng ta không thể để bọn họ trông thấy. Chúng ta sẽ trốn dưới tầng hầm. Hãy xem bọn chúng đã làm gì với các ổ khóa! Bọn chúng đã phá vỡ cánh cửa của tôi!”
“Không, Garrett!”, Mary Beth nói bằng giọng khản đặc. “Tôi sẽ không quay vào đó đâu.”
Nhưng Garrett không nói gì, cứ thế kéo cô vào. Người phụ nữ tóc đỏ câm lặng loạng choạng bước vào. Garrett đẩy cho cánh cửa đóng lại, nhìn phiến gỗ vỡ toác, các ổ khóa long ra, vẻ mặt sững sờ. “Không!”, gã kêu lên, trông thấy những mảnh thủy tinh trên sàn – dấu vết của chiếc lọ đựng con bọ cánh cứng có hình dáng khủng long.
Mary Beth, hoảng hốt thấy có vẻ như việc khiến gã trai giận dữ nhất chính là việc một con bọ của gã đã trốn thoát, bước tới giáng một cái tát vào bộ mặt gã. Gã chợp mắt ngạc nhiên, lảo đảo lùi lại. “Đồ ngu!”, cô thét. “Bọn chúng suýt giết chết tao.”
Gã trai bối rối. “Tôi xin lỗi!” Giọng gã lạc đi. “Tôi không biết bọn chúng. Tôi tưởng không có ai xung quanh đây. Tôi không định bỏ chị một mình lâu vậy. Tôi đã bị bắt.”
Garrett đẩy những mảnh gỗ vụn vào dưới cánh cửa để chèn cho nó không mở ra.
“Bị bắt?”, Mary Beth hỏi. “Vậy cậu đang làm gì ở đây?”
Rốt cuộc thì người phụ nữ tóc đỏ cũng lên tiếng. Bằng giọng lẩm bẩm, chị ta nói: “Tôi đã cứu cậu ấy ra khỏi nhà giam. Để chúng tôi có thể tìm thấy cô và đưa cô trở về. Và cô sẽ có thể xác nhận chuyện gã đàn ông mặc quần yếm mà cậu ấy kể”.
“Gã đàn ông nào?”, Mary Beth bối rối hỏi.
“Tại Bến tàu kênh Nước đen. Gã đàn ông mặc chiếc quần yếm màu vàng, kẻ đã giết Billy Stail.”
“Nhưng…”, Mary Beth lắc đầu. “Chính Garrett đã giết Billy. Hắn đập cậu ta bằng một cái xẻng. Tôi trông thấy mà. Sự việc xảy ra ngay trước mắt tôi. Rồi hắn bắt cóc tôi.”
Mary Beth chưa từng trông thấy một vẻ mặt như thế ở bất cứ ai khác. Hoàn toàn choáng váng, sững sờ. Người phụ nữ tóc đỏ vừa quay về phía Garrett thì có cái gì đó đập vào mắt chị ta: những dãy trái cây và rau đóng hộp hiệu Farmer John. Chị ta chậm chạp bước tới chỗ chiếc bàn, y như trong cơn mộng du và cầm một hộp lên. Nhìn chằm chằm hình ảnh in trên nhãn hộp – ông chủ trang trại tóc vàng tươi cười mặc chiếc quần yếm màu nâu vàng và sơ mi trắng.
“Cậu đã bịa đặt?”, người phụ nữ thì thào bảo Garrett, giơ cái hộp lên. “Không có gã đàn ông nào. Cậu đã nói dối tôi.”
Garrett bước tới, nhanh như một con châu chấu, rút đôi còng tay ra khỏi thắng lưng người phụ nữ tóc đỏ. Gã bập còng vào cổ tay chị ta.
“Tôi xin lỗi, Amelia”, gã nói. “Nhưng nếu tôi kể cho cô nghe sự thật, cô sẽ chẳng đời nào cứu tôi ra. Đó là cách duy nhất. Tôi phải quay lại đây. Tôi phải quay lại với Mary Beth.”
CHƯƠNG BA MƯƠI SÁU
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Ánh mắt Lincoln Rhyme lướt qua lướt lại bảng chứng cứ một cách ám ảnh. Từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.
Thêm lần nữa.
Quái quỷ thế nào mà cái máy tách hợp chất chết tiệt chạy lâu vậy? Rhyme tự hỏi.
Jim Bell và Mason Germain ngồi gần đó, cả hai đều im lìm. Lucy đã gọi điện về cách đấy mấy phút, bảo rằng họ bị mất dấu vết và đang chờ đợi ở một địa điểm nằm về phía bắc ngôi nhà lưu động – ô C-5.
Chiếc máy tách hợp chất kêu ầm ầm và tất cả mọi người trong căn phòng vẫn không ai nói gì, chờ đợi kết quả.
Những phút im lặng kéo dài cuối cùng cũng bị phá vỡ khi giọng Ben Kerr cất lên. Anh ta khẽ khàng bảo Rhyme: “Bọn bạn từng đặt biệt hiệu cho tôi, ông biết đấy. Có thể ông đang thắc mắc”.
Rhyme nhìn Ben.
“Big Ben. Giống như tên chiếc đồng hồ ở nước Anh ấy. Có thể ông đang thắc mắc.”
“Không. Cậu muốn nói hồi đi học ấy hả?”
Một cái gật đầu. “Hồi trung học. Mười sáu tuổi, tôi đã cao 1m90. Tôi rất hay bị giễu cợt. Big Ben. Và cả những biệt hiệu khác nữa. Vì thế tôi chẳng bao giờ cảm thấy thoải mái cho lắm về hình dáng bên ngoài của mình. Tôi nghĩ có lẽ đó là lý do tại sao tôi đã cư xử hơi kỳ cục lúc mới gặp ông.”
“Bọn bạn từng khiến cậu trải qua khoảng thời gian khó khăn, phải không?”. Rhyme hỏi, vừa để tỏ ý chấp nhận lời xin lỗi vừa để lái câu chuyện sang hướng khác.
“Tất nhiên rồi. Cho tới khi tôi tham gia đấu vật ở trường và hạ Darryl Tennison sau 3,2 giây, còn cậu ta thì phải lâu hơn như thế nhiều mới hồi phục được.”
“Tôi từng thường xuyên bỏ giờ giáo dục thể chất”, Rhyme bảo Ben. “Tôi bịa đặt ra các lý do của bác sĩ, của cha mẹ tôi – tôi phải nói là các lý do nghe khá xác đáng đấy – rồi lẻn vào phòng thí nghiệm.”
“Ông đã như thế à?”
“Ít nhất cũng mỗi tuần hai lần.”
“Và ông làm thí nghiệm ?”
“Tôi hay đọc, nghịch ngợm với các thiết bị. Có một vài lần, tôi nghịch ngợm với Sonja Metzger.”
Thom và Ben bật cười.
Nhưng Sonja, bạn gái đầu tiên của Rhyme, lại khiến anh nghĩ về Amelia Sachs, và anh không thích cái kết cục mà những ý nghĩ này dẫn anh tới.
“Được rồi”, Ben nói. “Chúng ta đã có kết quả.” Màn hình máy vi tính bừng hiện kết quả phân tích mẫu chứng mà lúc trước Rhyme yêu cầu Jim Bell cung cấp. Anh chàng to lớn gật đầu. “Đây là kết quả: dung dịch chứa năm mươi phần trăm chất cồn. Nước, với nhiều khoáng chất.”
“Nước giếng”, Rhyme nói.
“Rất có khả năng”, nhà động vật học tiếp tục. “Tiếp theo là dấu hiệu của formaldehyde, phenol, fructose, dextrose, cellulose.”
“Đối với tôi thế là đủ”, Rhyme tuyên bố. Anh tự nhủ: Con cá có lẽ vẫn còn ở trên cạn nhưng phổi của nó vừa mọc ra. Anh bảo Bell và Mason: “Tôi đã mắc sai lầm. Một sai lầm lớn. Tôi phát hiện được men nở và tôi cho rằng đó là từ chỗ cối xay, chứ không phải từ nơi Garrett đang thực sự giữ Mary Beth. Nhưng tại sao một cái cối xay lại tạo ra men nở? Người ta chỉ tìm thấy men nở ở hiệu bánh… hoặc – anh nhướn lông mày nhìn Bell – ở chỗ nào đấy mà người ta đang ủ ngũ cốc”. Anh hất đầu chỉ chiếc chai trên bàn. Chất lỏng bên trong là thứ Rhyme vừa yêu cầu Bell lấy lên từ tầng hầm văn phòng cảnh sát trưởng. Nó là rượu lậu một trăm mười phần trăm độ chuẩn – đựng bằng những cái bình trước đây đựng nước trái cây mà Rhyme trông thấy một cảnh sát dọn dẹp đi khi anh chiếm căn phòng này để biến thành phòng thí nghiệm. Đó là mẫu Ben vừa cho chạy qua máy phân tích hợp chất.
“Đường và men nở”, nhà hình sự học tiếp tục. “Chúng là thành phần trong rượu. Và cellulose trong mẻ “trăng sáng” kia…”. Rhyme nhìn màn hình máy vi tính.
“Có lẽ là từ các sợi giấy – tôi đồ rằng khi người ta cất rượu lâu, người ta phải lọc.”
“Đúng”, Bell khẳng định. “Và phần lớn dân “trăng sáng” sử dụng loại phin lọc cà phê sản xuất hàng loạt.”
“Hoàn toàn giống những sợi giấy chúng tôi tìm thấy trên quần áo của Garrett. Và dextrose, fructose – các loại đường phức hợp được tìm thấy trong trái cây. Đó là từ dấu nước trái cây còn đọng lại trong bình. Ben nói nó có vị chát – giống như việt quất. Jim, anh đã bảo tôi đấy là loại bình đựng rượu lậu phổ biến nhất. Đúng không?”
“Nhãn hiệu Ocean Spray.”
“Vậy”, Rhyme tóm tắt lại. “Garrett đang giữ Mary Beth trong một ngôi nhà gỗ vốn của dân cất rượu lậu – có lẽ là một nhà đã bị bỏ hoang kể từ lần cơ quan chức trách ập đến khám xét.”
“Lần nào?”, Mason hỏi.
“Chà, cũng giống như ngôi nhà lưu động”, Rhyme đáp ngắn gọn, không thích cứ luôn phải giải thích những điều hiển nhiên. “Nếu Garrett sử dụng nơi nào đó để giấu Mary Beth thì nơi ấy ắt đã bị bỏ hoang. Và lý do duy nhất khiến người ta từ bỏ một xưởng chưng cất rượu đang hoạt động là gì?”
“Bị cơ quan thuế xộc đến”, Bell trả lời.
“Phải”, Rhyme nói. “Hãy gọi điện đi xác định địa điểm của tất cả các xưởng chưng cất rượu từng bị khám xét trong vòng vài năm vừa qua. Đó sẽ là một ngôi nhà được xây dựng từ thế kỉ XIX, xung quanh có nhiều cây cối, quét sơn màu nâu – tuy nó chưa chắc đã quét sơn màu nâu vào thời điểm bị khám xét. Nó cách nơi Frank Heller sống bốn hay năm dặm, bên cạnh một cái vũng Carolina hoặc từ sông Paquo người ta sẽ phải đi vòng qua một cái vũng mới tới đấy được.”