Cái ghế trống – Jeffery Deaver

Ben nói: “Gọng vó cũng giống cây bắt ruồi. Loài này ăn thịt côn trùng. Chúng rất tuyệt. Thuở nhỏ, tôi từng ngồi quan sát chúng hàng tiếng đồng hồ. Cái cách chúng bắt…”

“Rất tuyệt”, Rhyme châm biếm nhắc lại. “Tôi không quan tâm đến thói quen dùng bữa của chúng. Chúng hay được tìm thấy ở đâu? Điều đó sẽ rất tuyệt đối với tôi đấy.”

“Ồ, khắp vùng này.”

Rhyme cau có. “Vô tích sự. Mẹ kiếp. Được rồi, sau khi chạy xong mẫu vải quần hãy chạy chỗ đất cát kia qua máy tách hợp chất.” Rồi anh nhìn chiếc áo phông của Garrett đang trải rộng trên một cái bàn. “Những vết bẩn kia là gì?”

Có vài vết đo đỏ bám ở chiếc áo. Ben xem xét chúng kỹ lưỡng rồi nhún vai, lắc đầu.

Đôi môi mỏng của nhà hình sự học nở nụ cười giễu cợt. “Cậu thử nếm xem?”

Không do dự, Ben cầm áo lên, liếm lấy một chút vết bẩn.

Rhyme kêu to: “Cậu chàng khá”.

Ben nhướn một bên lông mày. “Tôi cho rằng đó là một bước đúng chuẩn.”

“Chẳng đời nào tôi thèm làm như vậy đâu”, Rhyme đáp lời.

“Tôi không tin ông lấy một phút”, Ben nói. Anh ta liếm lại. “Theo tôi phỏng đoán thì nước trái cây. Tuy nhiên không nói được là vị gì.”

“Rồi, bổ sung vào danh sách chứng cứ đi, Thom.” Rhyme hất đầu chỉ chiếc máy tách hợp chất. “Chúng ta hãy xem kết quả phân tích mảnh vải quần, tiếp theo chạy chỗ đất cát lấy từ phần gấu.”

Chiếc máy nhanh chóng cho họ biết các chất bám trên quần áo của Garrett là gì và những thứ có trong gấu quần gã: đường, lại camhene, chất cồn, dầu hoả, men nở. Lượng dầu hoả rất đáng kể. Thom bổ sung chúng vào danh sách chứng cứ và mấy người đàn ông cũng xem xét kỹ lưỡng.

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Camphene
Chất cồn
Dầu hoả
Men nở

Tất cả những cái này có ý nghĩa như thế nào? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Quá nhiều manh mối. Anh không thể nhận ra các mối quan hệ giữa chúng. Liệu đường là từ nước trái cây hay từ một địa điểm riêng biệt mà gã trai từng đến? Liệu gã đã mua dầu hoả hay gã chỉ tình cờ trốn trong một trạm xăng hay trong một kho chứa nơi người chủ cất dầu hoả? Chất cồn thì được tìm thấy trong ba nghìn sản phẩm gia dụng và công nghiệp phổ biến – từ các loại dung môi tới nước thơm xoa mặt sau khi cạo râu. Men nở chắc chắn bị dây vào tại cối xay, đó là nơi ngũ cốc được xay thành bột.

Sau vài phút, ánh mắt Lincoln Rhyme lướt sang bảng chứng cứ khác.

* * *

TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – PHÒNG RIÊNG CỦA GARRETT
Xạ chồn hôi
Lá thông bị cắt rời khỏi cành
Các bức vẽ côn trùng
Ảnh chụp gia đình
Ảnh chụp mary Beth
Các sách về côn trùng
Dây câu
Tiền
Chìa khoá chưa xác định
Dầu hoả
Ammonia
Nitrate
Camphene

Một chi tiết nào đấy Sachs đã đề cập tới khi cô đang khám xét phòng riêng của gã trai quay lại với Rhyme.

“Ben, cậu có thể mở cuốn vở kia được không, cuốn vở của Garrett ấy? Tôi muốn xem nó lần nữa.”

“Ông có muốn tôi đặt vào thiết bị lật trang không?”

“Không, cứ lật bằng tay thôi”, Rhyme bảo.

Các bức vẽ côn trùng cứng nhắc của gã trai được lật nhanh qua: bọ gạo, nhện nước, gọng vó.

Rhyme nhớ Sachs đã bảo anh rằng, ngoại trừ chiếc lọ đựng ong bắp cày – cái két an toàn của Garrett – tất cả các loài côn trùng trong bộ sưu tập của gã đều được nuôi trong những chiếc lọ đựng nước. “Tất cả bọn chúng đều là các loài thuỷ sinh.”

Ben gật đầu. “Có vẻ thế”.

“Hắn bị nước thu hút”, Rhyme trầm ngăm. Anh nhìn Ben. “Và loại đầu mối câu đó? Cậu nói nó dùng để câu bọn cá ăn sát đáy à?”

“Viên chua ạ? Phải rồi.”

“Nước mặn hay nước ngọt?”

“Chà, nước ngọt. Tất nhiên rồi.”

“Và dầu hỏa – thuyền cũng chạy bằng dầu hoả, đúng không nhỉ?”

“Nhiên liệu đốt đèn”, Ben trả lời. “Loại thuyền nhỏ gắn động cơ bên ngoài thân vốn vẫn sử dụng nó.”

Rhyme nói: “Nếu suy nghĩ tới điều này thì thế nào nhỉ? Phải chăng hắn đang đi về phía tây bằng thuyền trên sông Paquenoke?”.

Ben nói: “Có lý đấy, ông Lincoln. Và tôi cuộc rằng lượng dầu hoả nhiều vậy vì hắn đã nạp lại nhiên liệu nhiều lần – phải chạy qua chạy lại giữa Tanner’s Corner và nơi hắn giữ Mary beth. Chuẩn bị sẵn sàng các thứ cho cô ấy”.

“Tư duy tốt đấy. Gọi Jim Bell vào đây, được không?”

Vài phút sau, Bell quay lại và Rhyme trình bày giả thuyết của anh.

Bell nói: “Những con bọ dưới nước đem đến cho anh cái ý tưởng ấy đấy hả?”.

Rhyme gật đầu. “Nếu chúng ta biết về côn trùng, chúng ta sẽ biết về Garrett.”

“Nó chẳng điên rồ hơn những điều khác tôi đã nghe ngày hôm nay”, Jim Bell nói.

Rhyme hỏi: “Các anh có thuyền cảnh sát không?”

“Không. Nhưng dù sao thì nó cũng không hữu ích gì cho chúng ta đâu. Anh không biết sông Paquo. Trên bản đồ nó trông giống như bất cứ con sông nào – cũng có hai bờ, cũng có cái nọ cái kia, đủ cả. tuy nhiên nó còn có đến nghìn cái vịnh nhỏ và sông nhánh nối các đầm lầy. Nếu Garrett đi theo sông Paquo hắn sẽ không đi theo dòng chảy chính, tôi đảm bảo với anh điều này. Sẽ chẳng tài nào tìm thấy hắn được.”

Ánh mắt Rhyme đưa theo sông Paquenoke về phía tây. “Nếu hắn đã vận chuyển các đồ dự trữ tới địa điểm giữ Mary Beth thì nghĩa là chỗ đó có lẽ không quá xa con sông. Hắn sẽ phải đi về phía tây bao xa để tới khu vực ở được?”

“Phải xa đấy. Thấy khu vực trên kia không?” Bell đặt tay vào khu vực xung quanh ô G-7. “Đó là phía bắc sông Paquo, không ai sinh sống ở đó cả. Phía nam con sông thì khá đông dân cư. Hắn chắc chắn sẽ bị phát hiện.”

“Vậy ít nhất phải chừng mười dặm về phía tây?”

“Anh đúng đấy”, Bell nói.

“Cái cầu kia?” Rhyme hất đầu chỉ tấm bản đồ. Anh đang nhìn ô E-8.

“Cầu Hobeth ấy à?”

“Dốc lên cầu như thế nào? Chính là một đoạn quốc lộ?”

“Xung quanh toàn bãi rác. Nhưng cầu cao chừng bốn mươi feet nên dốc lên cầu dài. Ồ, hẵng khoan… Anh đang cho rằng Garrett sẽ phải quay lại dòng chảy chính để đi qua phía dưới cầu?”

“Đúng. Vì các kỹ sư hẳn đã lấp những nhánh sông nhỏ toả ra hai bên khi họ xây dựng dốc lên cầu.”

Bell gật đầu. “Ờ. Tôi hiểu rồi.”

“Cử Lucy và những người khác tới đó bây giờ đi. Tới chỗ cái cầu. Và, Ben này, hãy gọi cho nhân vật kia – Henry Davett. Bảo rằng chúng ta lấy làm tiếc lại cần đến sự giúp đỡ của ông ta”.

Chúa sẽ làm gì…

Một lần nữa nghĩ tới Davett, Rhyme thầm nhẩm một lời cầu nguyện – tuy nó không nhắm đến bất cứ vị thần nào. Nó nhắm đến Amelia Sachs: Ôi, Sachs, hãy cẩn thận. Chỉ còn là vấn đề thời gian, sớm muộn gì Garrett cũng sẽ có cớ xin em tháo còng cho hắn. Rồi dẫn em tới nơi nào đó hoang vắng. Rồi tìm cách cướp súng của em… Đừng để những tiếng đồng hồ đang trôi qua ru em vào sự tin tưởng hắn, Sachs ạ. Đừng mất cảnh giác. Hắn có độ kiên nhẫn của loài bọ ngựa đấy.

CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM

Garrett thông thạo các luồng nước ở đây y như một tay hoa tiêu đường sông lão luyện, gã lái cho con thuyền đi vào những chỗ có vẻ là những nhánh sông cụt nhưng rốt cuộc luôn luôn tìm thấy những lạch nước, mảnh tựa tơ nhện, dẫn họ vững vàng tiến về phía tây xuyên qua cái mê cung này.

Gã lưu ý Sachs những con rái cá sông, những con chuột xạ và hải ly – những cảnh tượng hẳn khiến các nhà tự nhiên học nghiệp dư phấn khích, nhưng không gây ấn tượng gì đối với cô. Đối với cô, đời sống hoang dã là những con chuột cống, những con bồ câu và sóc sống trong thành phố – và cũng chỉ ở khía cạnh là chúng hữu ích cho công việc giám định của cô và Rhyme.

“Nhìn kìa!”, Garrett kêu to.

“Cái gì?”

Gã chỉ một cái gì đó mà Sachs không trông thấy được. Gã nhìn chằm chằm vào một điểm gần bờ, lẫn giữa biết bao nhiêu vở kịch hết sức ngắn ngủi đang diễn ra dưới nước. Tất cả những gì Sachs có thể trông thấy là một con bọ gì đó nhảy trên mặt sông.

“Gọng vó”, Garrett bảo Sachs rồi ngồi ngả người lại khi họ bơi lướt qua. Bộ mặt gã trở nên nghiêm trang. “Côn trùng, nói chung, quan trọng hơn chúng ta nhiều. Ý tôi là đối với việc giữ cho hành tinh này tiếp tục tồn tại. hãy tưởng tượng – tôi đã đọc được điều này ở đâu đó – rằng nếu ngày mai tất cả mọi người trên trái đất biến mất, thế giới vẫn tiếp tục tồn tại bình thường. Nhưng nếu côn trùng biến mất thì đời sống sẽ kết thúc nhanh chóng – nói chung, trong vòng một thế hệ. Cây cối sẽ chết hết, rồi tới các con vật, và trái đất sẽ một lần nữa biến thành khối đá tảng khổng lồ.”

Mặc dù chất giọng còn của tuổi mới lớn, Garrett nói với vẻ uy quyền của một vị giáo sư và sự nhiệt tình của một người điều hành các cuộc họp tôn giáo làm thức tỉnh lại đức tin. Gã tiếp tục: “Phải, một số loài côn trùng gây hại. nhưng chỉ một số thôi, một hay hai phần trăm gì đó”. Bộ mặt gã trở nên sinh động và gã tự hào nói: “Và những loài phá hoại mùa màng, chà, tôi có cái ý tưởng này. Nó khá thú vị đấy. Tôi muốn nuôi loài rệp mắt vàng đặc biệt ấy, để kiềm chế các loại gây hại, thay thế cho các hoá chất độc – như vậy các loài côn trùng hữu ích và các loài động vật khác không bị tiêu diệt. Rệp mắt vàng là lựa chọn tốt nhất. Chưa ai từng làm việc này.”

“Cậu nghĩ là cậu có thể làm à, Garrett?”

“Tôi chưa biết chính xác phải làm thế nào. Nhưng tôi sẽ học cách.”

Sachs nhớ lại một chi tiết cô đã đọc được trong cuốn sách của Garrett, thuật ngữ do E. O. Wilson đưa ra, biofilia – cái tình cảm gắn bó mà con người cảm thấy đối với các loài sinh vật khác trên trái đất. Và trong lúc lắng nghe gã nói những chuyện vặt vãnh này – tất cả đều là bằng chứng cho niềm say mê trước thiên nhiên và sự hiểu biết – cô có một ý nghĩ lấn át mọi ý nghĩ khác: bất cứ ai có thể bị các loài sinh vật cuốn hút và có thể yêu thương chúng, theo cái cách kỳ quặc như gã, thì không thể là một kẻ cưỡng dâm và sát nhân được.

Tác giả: