“Tôi đã đoán đúng”, Culbeau tiếp tục.
“Cái gì?”, Sachs hỏi.
“Sue McConnell đã tăng phần thưởng lên hai nghìn”, gã nhún vai.
Tomel nói thêm: “Miếng ăn đến miệng rồi còn để rơi mất.”
“Xin lỗi các anh, tôi có việc phải làm.” Sachs bắt đầu đi qua hai gã, nghĩ bụng: Còn gã thứ ba của cái nhóm này đâu? Gã gầy giơ xương…
Một âm thanh lướt nhanh phía sau Sachs và cô cảm thấy khẩu súng lục được rút ra khỏi bao. Cô xoay lại, khom người trong lúc khẩu súng mất hút vào bàn tay của gã Sean O’Sarian đầy tàn nhang, gầy nhẳng. Gã nhún nhảy lùi ra xa cô, nhăn nhở cười.
Culbeau lắc đầu: “Sean, thôi nào”.
Sachs chìa bàn tay ra: “Cho tôi xin lại”.
“Nghía tí thôi mà. Đẹp đấy. Harris đây sưu tầm súng. Khẩu này đẹp đấy, phải không, Harris?”
Tomel chẳng nói gì, chỉ thở dài và lau mồ hôi trên trán.
“Anh đang tự chuốc lấy phiền phức đấy.”
Culbeau bảo: “Trả cho cô ta đi, Sean. Không phải trò nghịch ngợm của mày đâu.”
Gã giả vờ đưa cho Sachs, chìa báng súng ra trước, rồi nhăn nhở cười và rụt tay lại. “Này, cưng, chính xác thì cô em từ đâu đến? New York hả, anh nghe nói thế. Ở đó ra sao nhỉ? Một nơi hoang dã, anh cuộc là thế.”
“Đừng lãng phí thời gian với cái khẩu súng chết tiệt ấy nữa”, Culbeau lầm bầm. “Chúng ta bị tuột mất khoản tiền kia rồi. Hãy chấp nhận điều đó và quay lại thị trấn đi.”
“Trả vũ khí cho tôi”, Sachs lẩm bẩm.
Nhưng O’Sarian đang nhún nhẩy bước vòng quanh, nhăm súng lên các vòm cây y như thể một thằng nhóc mười tuổi chơi trò công an bắt kẻ cướp vậy. “Pằng, pằng…”
“Được rồi, bỏ qua chuyện này đi.” Sachs nhún vai. “Dù sao thì nó cũng chẳng phải của tôi. Khi nào anh chơi xong cứ việc đem trả cho văn phòng cảnh sát trưởng.” Cô quay người bước qua O’Sarian.
“Này”, gã nói, cau mày thất vọng vì Sachs bỏ dở trò chơi. “Cô không…”
Sachs né sang bên phải O’Sarian, chúi xuống và nhanh chóng đứng thẳng dậy đằng sau gã, vòng cánh tay khóa lấy cổ gã. Chỉ nửa giây, con dao bấm đã được rút khỏi túi quần cô, lưỡi dao mở ra và mũi dao đập đập vào những cái nốt đỏ phía dưới cằm gã.
“Ôi, lạy Chúa, cô đang làm cái quái quỷ gì thế?”, O’Sarian thốt lên, rồi nhận ra rằng khi nói cổ họng gã bị ấn thêm vào mũi dao. Gã câm miệng.
“Được rồi, được rồi.” Culbeau giơ hai tay lên. “Chúng ta đừng…”
“Hãy thả vũ khí xuống đất”, Sachs nói. “Tất cả các anh.”
“Tôi chẳng làm gì cả”, Culbeau phản đối.
“Thưa cô, cô nghe này”, Tomel nói, cố gắng lấy giọng biết điều. “Chúng tôi không định gây rắc rối. Ông bạn chúng tôi đây…”
Mũi dao chọc vào cái cằm lởm chởm râu của O’Sarian.
“Á á, làm đi, làm đi!”, O’Sarian tuyệt vọng nói, hai hàm răng nghiến lại. “Vứt mấy khẩu súng chết giẫm xuống.”
Culbeau thả khẩu súng trường của gã xuống đất. Tomel cũng vậy.
Trong lúc bị cái mùi không tắm gội bốc ra từ cơ thể O’Sarian tấn công, Sachs trượt bàn tay dọc theo cánh tay gã, tịch thu khẩu súng. Gã đành buông tay. Cô bước lùi lại, đẩy O’Sarian một cái, vẫn chĩa khẩu súng ngắn vào gã.
“Tôi chỉ đùa thôi”, O’Sarian nói. “Tôi chỉ đùa. Tôi chẳng làm gì cả. Tôi chẳng có ý gì cả. Hãy bảo cô ta là tao chẳng làm gì cả…”
“Chuyện gì xảy ra thế này?”, Lucy Kerr hỏi, bước xuôi theo lối mòn, bàn tay đặt trên báng khẩu súng ngắn.
Culbeau lắc đầu. “Sean giở trò ngu ngốc.”
“Những cái trò sẽ khiến anh ta mất mạng có ngày”, Lucy nói
Sachs đóng con dao bấm bằng một tay và lại đút nó vào túi quần.
“Xem này, tôi bị cứa đứt da. Xem này, máu!” O’Sarian giơ lên một ngón tay dây máu.
“Chết tiệt”, Tomel nói vẻ sợ sệt, tuy Sachs chẳng biết gã định ám chỉ điều gì.
Lucy nhìn Sachs. “Cô muốn xử lý việc này như thế nào đây?”
“Tắm một cái”, Sachs trả lời.
Culbeau bật cười.
Sachs nói thêm: “Chúng ta không có thời gian mà lãng phí với họ.”
Người nữ cảnh sát hất đầu bảo mấy gã đàn ông: “Đây là hiện trường vụ án. Các anh không có cơ hội giành phần thưởng đâu.” Cô hất đầu chỉ mấy khẩu súng trường. “Nếu các anh muốn săn bắn gì, hãy đi chỗ khác.”
“Ồ, giống như đang mùa săn bắn ấy nhỉ”, O’Sarian nói giọng châm chọc, coi câu bình luận của Lucy thật ngớ ngẩn. “Ý tôi là, rõ khỉ.”
“Rồi quay lại thị trấn đi – trước khi các anh rước thêm rắc rối cho cuộc đời mình.”
Mấy gã đàn ông nhặt súng lên. Culbeau cúi đầu nói vào tai O’Sarian những lời thì thầm, tức tối. O’Sarian nhún vai, nhăn nhở cười. Trong khoảnh khắc, Sachs nghĩ Culbeau sắp sửa đánh gã.
Nhưng rồi gã đàn ông to lớn đó đã bình tĩnh lại và quay sang Lucy: “Các cô tìm thấy Mary Beth chưa?”
“Chưa. Nhưng chúng tôi đã bắt được Garrett và hắn sẽ cho chúng tôi biết cô ấy đang ở đâu.”
Culbeau nói: “Giá mà chúng tôi có cơ hội lĩnh phần thưởng, nhưng tôi cũng mừng vì hắn đã bị bắt. Thằng nhãi ấy là cái họa.”
Khi bọn họ đi rồi, Sachs hỏi: “Chị phát hiện được gì ở cối xay không?”
“Không. Nên nghĩ tôi sẽ xuống đây hỗ trợ cô tìm kiếm con thuyền.”
Trong lúc tiếp tục đi xuôi theo lối mòn, Sachs nói: “Có một việc tôi quên mất. Chúng ta phải cử người quay lại chỗ cái bẫy kia – cái tổ ong bắp cày ấy mà. Giết chết chúng đi và lấp cái hố.”
“Ồ, Jim đã cử Trey Williams, một trong số các cảnh sát của chúng tôi, tới đó, mang theo hộp xịt ong bắp cày và xẻng. Nhưng chẳng có con ong nào. Nó là một cái tổ cũ.”
“Bỏ không à?”
“Phải.”
Vậy nó hoàn toàn chẳng phải một cái bẫy, chỉ là một mánh khóe để ghìm chân họ. Sachs cũng nhớ lại rằng chai ammonia không được bố trí để làm hại ai cả. Garrett đã có thể bố trí để nó đổ xuống những người đuổi theo gã, làm họ bị mù. Tuy nhiên, gã đã đặt nó trên một vách đá nhỏ. Nếu họ không phát hiện ra sợi dây câu và vướng vào nó, cái chai cũng sẽ đổ xuống những tảng đá – phía dưới mười feet so với lối mòn, cảnh báo Garrett bằng mùi ammonia, nhưng không làm hại ai.
Sachs lại hình dung ra cặp mắt mở to, hốt hoảng của Garrett.
Tôi sợ. Bắt hắn ngừng bắn đi.
Sachs nhận ra Lucy đang nói chuyện với cô.
“Xin lỗi, chị bảo gì cơ?”
Người nữ cảnh sát hỏi: “Cô học được ở đâu cách sử dụng con dao ấy?”
“Sự hoang dã đã dạy tôi đấy.”
“Sự hoang dã ư? Ở đâu?”
“Một nơi được gọi là Brooklyn”, Sachs đáp.
* * *
Chờ đợi.
Mary Beth McConnell đứng bên cạnh khung cửa sổ bụi bặm. Cô bức bối và xây xẩm mặt mày – vì hơi nóng ngột ngạt trong cái nơi đang giam giữ cô và vì cơn khát cháy cổ. Khắp ngôi nhà này, cô không tìm được một giọt chất lỏng nào để uống. Liếc nhìn qua ô cửa sổ phía sau, ánh mắt vượt qua tổ ong bắp cày, cô có thể thấy các vỏ chai nước nằm trên một đống rác. Chúng khiêu khích cô và làm cô khát thêm. Cô biết mình không sống được quá một hay hai ngày trong cái nóng như thế này mà không có nước uống.
Ông ở đâu? Ở đâu? Cô thầm nói với nhà truyền giáo.
Nếu quả thực đã xuất hiện một người đàn ông ở đằng kia – và ông ta chẳng phải là do trí tưởng tượng tuyệt vọng, bị cơn khát hành hạ của cô sáng tạo ra.
Mary Beth dựa người vào bức tường nóng bỏng. Tự hỏi liệu cô có xỉu đi không. Cố gắng nuốt nhưng trong miệng chẳng còn chút nước bọt nào. Không khí bao phủ mặt cô, ngột ngạt tựa như len nóng sực.
Rồi Mary Beth giận dữ nghĩ: Ôi, Garrett… Tao đã biết mày sẽ gây ra tai họa. Cô nhớ có câu tục ngữ xưa: Làm ơn mắc oán.
Mình đáng lẽ không nên cứu hắn… Nhưng sao mình lại có thể không được? Sao mà mình lại có thể không cứu hắn thoát khỏi đám nam sinh trung học đó được? Cô nhớ hôm trông thấy bốn cậu nam sinh đứng nhìn Garrett nằm ngất trên phố Cây Thích dạo năm ngoái. Một cậu cao lớn, có điệu cười nhếch mép khinh bỉ, bạn cùng đội bóng bầu dục với Billy Stail, kéo khóa chiếc quần bò Guess!, lôi cái của cậu ta ra và sắp sửa đái vào Garrett. Cô đã lao tới quát mắng cả bọn, giật lấy điện thoại di động của một cậu khác để gọi xe cấp cứu đưa Garrett đi.
Tất nhiên, mình phải làm thế.
Nhưng một khi mình cứu hắn rồi, mình lại thuộc về hắn…
Thoạt đầu, sau vụ tai nạn, Mary Beth thích thú thấy Garrett cứ bám theo cô như một kẻ hâm mộ bẽn lẽn. Gọi tới nhà để kể cho cô những tin tức gã nghe được, tặng cô những món quà (cơ mà quà gì chứ, con bọ cánh cứng màu xanh lá cây bóng loáng đựng trong cái chuồng bé tí, các bức vẽ vụng về những con nhện và những con nhiều chân, con chuồn chuồn buộc vào sợi dây – vẫn còn sống!).
Nhưng rồi cô bắt đầu nhận ra có gã ở gần quá thường xuyên. Cô nghe được tiếng bước chân đằng sau lưng mỗi khi đi bộ từ xe vào nhà, lúc đêm khuya. Trông thấy một dáng người trên những vòm cây xung quanh nhà cô ở Bến tàu kênh Nước đen. Nghe thấy cái giọng cao, kỳ dị lẩm bẩm những lời cô không thể luận ra là gì, tự nói hay hát với chính gã. Gã nhận ra cô giữa phố Chính và đi thẳng tới, chuyện trò lan ma lan man, lấy mất thời gian quý báu của cô, khiến cô càng ngày càng khó chịu. Liếc nhìn – cả ngượng ngùng lẫn thèm muốn – ngực cô, chân cô, tóc cô.
“Mary Beth, Mary Beth… chị có biết nếu một cái mạng nhện mà giả dụ như, chăng khắp thế giới, trọng lượng của nó cũng chưa đầy một ounce không… Này, Mary Beth, chị có biết mạng nhện là vật liệu bền hơn thép gấp năm lần không? Và nó đàn hồi hơn nilon? Có một số mạng nhện rất hay – chúng giống như những chiếc võng. Lũ ruồi ngả lưng xuống đó và không bao giờ tỉnh dậy.”
(Cô đáng lẽ đã phải nhận ra, giờ đây cô nhớ lại, rằng phần lớn những chuyện tầm phào của Garrett là về nhện và các côn trùng bẫy mồi.)
Và bởi vậy cô đã sắp xếp lại cuộc sống hàng ngày để tránh đụng phải gã, đi mua sắm tại các cửa hiệu mới, về nhà theo các tuyến đường khác với trước đây, lựa chọn các lối mòn khác để đạp xe, leo núi.
Nhưng rồi xảy ra một việc làm hỏng mọi nỗ lực của Mary Beth nhằm giữ khoảng cách với Garrett Hanlon: cô có một khám phá. Và tình cờ là khám phá này lại ở trên bờ sông Paquenoke ngay tại trung tâm Bến tàu kênh Nước đen – nơi gã trai đã xí làm lãnh địa riêng của mình. Tuy nhiên, khám phá này quan trọng tới nỗi thậm chí ngay một băng rượu lậu, chứ kể gì một gã trai gầy giơ xương bị ám ảnh bởi lũ côn trùng, cũng không thể khiến cô sợ không đến đó.