Phần 2
CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG
CHƯƠNG MƯỜI BA
Bên ngoài cửa sổ là một tổ ong bắp cày lớn.
Mary Beth McConnell đã kiệt sức đăm đăm nhìn nó, tựa đầu vào ô kính bám đầy dầu mỡ của cái nhà tù đang giam giữ cô.
Cái tổ ong – xám xịt, ẩm ướt, đáng kinh tởm – khiến cô tuyệt vọng, hơn bất cứ thứ gì khác xung quanh cái chốn khủng khiếp này.
Hơn cả những chấn song Garrett cẩn thận lắp bên ngoài cửa sổ. Hơn cả cánh cửa gỗ sồi dày với ba ổ khóa to tướng. Hơn cả ký ức về chuyến đi lê lết cùng Thằng Bọ từ Bến tàu kênh Nước đen.
Cái tổ ong bắp cày có hình nón, chóp chúc xuống đất. Nó nằm trên một chạc ba mà Garrett cắm gần cửa sổ. Cái tổ hẳn phải chứa hàng trăm con ong mình vằn đen và vàng bóng loáng cứ chui ra chui vào qua cái lỗ ở dưới đáy tổ.
Sáng hôm nay, khi cô thức giấc thì Garrett đã đi rồi. Sau khi nằm thêm một tiếng đồng hồ trên giường – chuếnh choáng và buồn nôn do cú đập trời giáng vào đầu đêm hôm qua – Mary Beth lẩy bẩy đứng dậy, nhìn qua cửa sổ. Thứ đầu tiên cô trông thấy là cái tổ ong bên ngoài ô cửa sổ phía sau, sát phòng ngủ.
Lũ ong vốn không tự làm tổ ở đó, chính Garrett đem đặt nó bên ngoài cửa sổ. Đầu tiên, Mary Beth không thể nghĩ ra lý do tại sao. Nhưng rồi, với cảm giác tuyệt vọng, cô hiểu rằng: kẻ bắt giữ cô đã để nó ở đó như lá cờ chiến thắng.
Mary Beth McConnell biết về lịch sử. Cô biết về những cuộc chiến tranh, biết về những đạo quân chinh phục những đạo quân khác. Mục đích của các lá cờ bình thường và của các lá cờ hiệu không chỉ để xác định phe này hay phe kia, mà còn để nhắc nhở là kẻ từng bị đánh bại bây giờ nắm trong tay quyền hành.
Và Garrett đã thắng.
Ờ, gã đã thắng trận đánh ấy, nhưng kết quả của cuộc chiến tranh thì chưa được quyết định.
Mary Beth ấn vào vết thương trên đầu. Đó là một cú đập khủng khiếp nơi thái dương và làm trầy mất ít da. Cô tự hỏi liệu nó có bị nhiễm trùng không.
Mary Beth tìm thấy sợi dây thun trong ba lô, cô buộc vồng mái tóc dài màu nâu lên. Mồ hôi chảy xuống cổ, và cô cảm thấy khát ghê gớm. Cô tắc thở vì cái nóng ngột ngạt trong căn phòng đóng kín. Cô nghĩ tới việc cởi chiếc sơ mi vải bò dày cộp ra – sợ có rắn rết hay nhện, cô bao giờ cũng mặc áo dài tay khi đào bới gần các bụi rậm, các đám cỏ cao. Nhưng bây giờ tuy nóng, cô quyết định không cởi chiếc sơ mi. Cô chẳng biết lúc nào thì kẻ bắt giữ cô trở về, bên trong cô chỉ mặc mỗi chiếc áo lót ren màu hồng, mà Garrett Hanlon thì chắc chắn chẳng cần đến bất cứ sự khuyến khích nào trong cái lĩnh vực ấy.
Liếc nhìn tổ ong lần cuối cùng, Mary Beth rời cửa sổ. Rồi cô lại đi xung quanh ngôi nhà ba phòng tồi tàn, mất công vô ích tìm kiếm khe hở nào đó để trốn thoát. Đây là một ngôi nhà kiên cố, xây dựng từ lâu lắm rồi. Tường dày – làm bằng các khúc cây đẽo sơ sài đóng đinh vào những tấm ván nặng. Bên ngoài ô cửa sổ phía trước là bãi cỏ cao trải rộng đến hàng cây to ở cách đó gần trăm thước. Bản thân ngôi nhà cũng nằm trên một khoảng đất đầy cây to. Nhìn qua ô cửa sổ phía sau – ô cửa sổ có tổ ong bắp cày – cô chỉ trông thấy được, qua những thân cây, mặt nước sáng lấp lánh của cái ao mà ngày hôm qua họ đã đi men theo bờ để vào đây.
Chính những căn phòng tuy nhỏ nhưng sạch sẽ một cách đáng ngạc nhiên. Phòng khách bày chiếc đi văng dài sơn hai màu nâu và vàng kim, mấy chiếc ghế dựa cũ kỹ đặt xung quanh chiếc bàn ăn rẻ tiền, chiếc bàn thứ hai xếp cả chục lọ cỡ một lít vốn đựng nước quả bây giờ đậy nắp lưới, nhốt đầy côn trùng mà Garrett sưu tầm được. Căn phòng thứ hai có một tấm nệm và một tủ gương trang điểm. Căn phòng thứ ba không đồ đạc gì trừ vài hộp sơn màu nâu còn phân nửa để trong góc, xem chừng Garrett mới quét sơn phía ngoài ngôi nhà. Màu sơn tối, gây tâm trạng chán nản và Mary Beth không hiểu tại sao gã lại chọn – cho tới lúc cô nhận ra rằng nó đồng màu với vỏ các thân cây mọc xung quanh. Một kiểu ngụy trang. Và cô lại nghĩ cái điều ngày hôm qua cô đã nghĩ – rằng gã trai thận trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều so với trước đây cô tưởng.
Phòng khách xếp hàng đống đồ ăn – đồ ăn vặt và hàng dãy rau quả đóng hộp – nhãn hiệu Farmer John. Từ các nhãn hộp, một ông chủ trang trại lãnh đạm mỉm cười với Mary Beth, hình ảnh này cũng lỗi thời y như hình ảnh của nhãn hiệu Betty Crocker có từ thập niên 1950. Cô tuyệt vọng lục soát khắp ngôi nhà tìm kiếm nước hoặc sô đa – bất cứ thứ gì uống được – nhưng không tìm thấy gì cả. Trong rau quả đóng hộp sẽ có nước ép, nhưng không có cái mở hộp hay bất cứ dụng cụ gì để mở. Cô còn mang theo ba lô, nhưng đã bỏ lại các dụng cụ khảo cổ ở Bến tàu kênh Nước đen. Cô thử đập một hộp vào cạnh bàn cho vỡ ra, nhưng hộp kim loại cứng quá.
Dưới gác có cái hầm chứa mà người ta xuống qua ô cửa trổ trên sàn căn phòng chính của ngôi nhà. Mary Beth liếc nhìn và rùng mình kinh tởm, sởn gai ốc. Đêm hôm qua sau khi Garrett đi ra ngoài một lúc – Mary Beth thu hết can đảm, lần theo những bậc cầu thang ọp ẹp xuống cái tầng hầm trần thấp tè, tìm kiếm một lối thoát khỏi ngôi nhà kinh khủng này. Nhưng không có lối thoát nào cả – chỉ có hàng chục chai lọ, hộp, túi cũ.
Cô không nghe thấy tiếng Garrett trở về và đột ngột, gã nhảy ào xuống cầu thang, lao tới chỗ cô. Cô thét lên và cố gắng chạy trốn, nhưng việc tiếp theo mà cô nhớ là thấy mình nằm trên sàn nhà bẩn thỉu, máu vấy đầy ngực và đông bết lại trong tóc, còn Garrett, cơ thể bốc mùi lâu ngày chưa tắm gội, từ từ đứng dậy, hai cánh tay vòng ôm lấy cô, ánh mắt dán chặt vào ngực cô. Gã bế cô lên và cô cảm thấy cái ấy của gã cứng ngắc áp sát cơ thể cô trong lúc gã chậm rãi đưa cô lên gác, làm ngơ mọi sự phản kháng…
Không! Mary Beth tự nhủ. Đừng nghĩ tới điều đó.
Đừng nghĩ tới cái đau đớn. Hay nỗi sợ hãi.
Và bây giờ Garret đang ở đâu?
Ngày hôm qua, Mary Beth khiếp sợ trong lúc gã cứ lững thững đi xung quanh ngôi nhà như thế nào thì bây giờ cô cũng khiếp sợ gã bỏ quên cô như thế. Hay thiệt mạng vì một tai nạn.
Hay ăn đạn của các cảnh sát đang tìm kiếm cô. Và cô sẽ chết khát ở đây. Mary Beth McConnell nhớ tới dự án mà giáo viên hướng dẫn đề tài tốt nghiệp cho cô và cô tham gia: công trình khai quật do Hội Sử học Bắc Carolina tài trợ được tiến hành đối với một ngôi mộ từ hồi thế kỷ XIX, để thử ADN trên thi thể chôn bên trong ngôi mộ xem liệu đó có phải là thi thể của hậu duệ Hầu tước Francis Drake như một truyền thuyết địa phương vẫn khẳng định không. Khi nhấc nắp quan tài ra, cô kinh hoàng thấy các xương cánh tay tử thi giơ lên, và vẫn còn những vết cào phía bên trong nắp quan tài.
Người đàn ông đã bị chôn sống.
Ngôi nhà này sẽ trở thành chiếc quan tài của cô. Và chẳng một ai…
Gì thế kia? Nhìn qua ô cửa sổ phía trước, Mary Beth cho rằng cô đã trông thấy một bóng người chuyển động ngay ở bìa rừng đằng xa. Qua các bụi rậm và lá cành, cô nghĩ đó có lẽ là một người đàn ông. Vì quần áo và chiếc mũ rộng vành ông ta đang mang thẫm màu, cùng với tư thế tự tin, dáng điệu, cô tự nhủ thầm: ông ta trông giống một nhà truyền giáo nơi hoang dã.
Nhưng khoan nào… Thực sự có ai ở kia ư? Hay đây chỉ là ánh sáng trên những tán cây? Mary Beth chẳng thể khẳng định được.
“Ở đây!”, cô kêu lên. Tuy nhiên, cửa sổ bị đóng kín bằng đinh, và thậm chí nếu nó có mở thì cô cũng không chắc ông ta sẽ nghe thấy tiếng kêu yếu ớt phát ra từ cổ họng khô khốc của cô, ở khoảng cách xa ngần này.
Mary Beth vớ lấy cái ba lô, hy vọng cô vẫn mang theo chiếc còi mà bà mẹ mắc chứng hoang tưởng của cô mua cho cô phòng trường hợp cần tự vệ. Mary Beth đã bật cười trước ý tưởng đó – một chiếc còi phòng trường hợp bị cưỡng hiếp ở Tanner’s Corner? – còn bây giờ thì cô đang tuyệt vọng tìm kiếm nó.
Nhưng chiếc còi đâu mất rồi. Có thể Garrett phát hiện ra nó và lấy nó đi khi Mary Beth bất tỉnh trên tấm nệm đẫm máu. Ờ, dù sao cô cũng sẽ kêu cứu – kêu cứu to hết mức có thể, bất chấp cái cổ họng đang khát cháy. Mary Beth vớ lấy một trong những chiếc lọ đựng côn trùng, định ném nó qua kính cửa sổ. Cô đưa nó về phía sau như một cầu thủ ném bóng chuẩn bị ném cú cuối cùng chẳng ai đánh được. Rồi bàn tay cô lại hạ xuống. Không! Nhà truyền giáo đã biến mất. Chỗ ông ta xuất hiện lúc nãy bây giờ chỉ là một thân liễu sẫm màu, cỏ và một cây nguyệt quế, đung đưa trong gió nóng bỏng.
Có thể đó là tất cả những gì Mary Beth vừa nhìn thấy.
Có thể ông ta chưa hề ở đấy.
Đối với Mary Beth McConnell – nóng, khiếp hãi, bị cơn khát hành hạ – cái thực và cái ảo bây giờ hòa trộn vào nhau và mớ truyền thuyết mà cô từng nghiên cứu về vùng nông thôn Bắc Carolina đáng sợ này dường như đều trở nên thực. Có thể nhà truyền giáo ấy chỉ là một trong số các nhân vật tưởng tượng, giống như Nàng tiên vùng Hồ Drummond.
Giống như những hồn ma khác của đầm lầy Sầu Thảm.
Giống như Con Nai Cái Lông Trắng trong truyền thuyết của người Anh điêng – câu chuyện đang trở nên giống đến đáng sợ câu chuyện xảy ra cho chính cô.
Đầu đau nhức, mặt mày xây xẩm vì nóng, Mary Beth nằm xuống chiếc đi văng cũ rích, nhắm mắt lại, nhìn những con ong bắp cày bay lượn gần đó, rồi chúng chui vào cái tổ xám xịt, lá cờ chiến thắng của kẻ bắt giữ cô.
* * *
Lydia cảm thấy bàn chân cô chạm xuống đến lòng suối và cô đạp để ngoi lên.
Ngạt thở, phì nước trong miệng ra, cô thấy mình đã trôi xuôi theo dòng suối tới một vũng lầy cách cối xay chừng năm mươi feet. Hai bàn tay vẫn bị trói quặt về phía sau, cô đạp mạnh để lấy thăng bằng, nhăn mặt đau đớn. Mắt cá chân cô đã bị trẹo hoặc vỡ do đập vào guồng bánh xe nước khi cô nhảy xuống cửa cống. Tuy nhiên nước chỗ này sâu phải tới sáu hoặc bảy feet và nếu không đạp cô sẽ chết đuối.