Thằng nhãi đó có súng không? Ed phân vân tự hỏi, nhận ra mình đang chẳng được che chắn gì, y như một người lính bước lên đầu cầu công sự trơ trụi. Ông hình dung ra một nòng súng trường ngay lập tức xuất hiện ở một trong những cái khe kia, nhắm xuống ông. Ed cảm thấy nỗi khiếp sợ ập đến và khom lưng cuống cuồng chạy nốt mười feet cuối cùng tới bên hông căn chòi. Ông nép sát vào những tấm ván gỗ dãi dầu mưa nắng, lấy lại hơi thở và thận trọng lắng nghe. Ông không nghe được gì ngoài tiếng vo ve mơ hồ của đám côn trùng.
Được rồi, Ed tự nhủ. Nhìn xem nào. Nhanh.
Trước khi hết can đảm, Ed đứng thẳng dậy, nhìn qua một khe kê súng.
Không có ai.
Rồi ông nheo mắt nhìn xuống sàn. Gương mặt ông nở một nụ cười trước những thứ ông nhìn thấy. “Jesse”, ông phấn khởi nói vào bộ đàm.
“Tôi nghe.”
“Tôi đang ở chỗ căn chòi có lẽ cách con sông một phần tư dặm về phía bắc. Tôi nghĩ là thằng khốn khiếp ở đây đêm hôm qua. Có giấy gói thức ăn và vỏ chai nước. Một cuộn băng dính nhựa nữa. Và cậu đoán xem còn cái gì? Tôi thấy một tấm bản đồ.”
“Một tấm bản đồ?”
“Phải. Có vẻ về khu vực này. Biết đâu nó sẽ chỉ cho chúng ta chỗ hắn đang giữ Mary Beth. Cậu nghĩ thế nào?”
Nhưng Ed Schaeffer không bao giờ biết được phản ứng của anh chàng đồng nghiệp trước bước tiến tốt đẹp trong công việc điều tra này. Tiếng người con gái thét lên vang vọng khắp cánh rừng và bộ đàm của Jesse Corn im bặt.
* * *
Lydia Johansson trượt chân về phía sau và lại thét lên khi gã trai nhảy ra từ một đám lách cao, giữ lấy hai cánh tay cô bằng những ngón tay bấu chặt.
“Ôi, lạy Chúa, xin đừng làm hại tôi!”, cô van xin.
“Câm mồm”, gã trai giận dữ thì thầm, ngó nghiêng xung quanh, những hành động giật cục, ánh mắt đầy dã tâm. Gã cao và gầy giơ xương, giống như phần lớn đám thiếu niên mười sáu tuổi ở các thị trấn nhỏ bang Carolina, thêm vào đó, gã rất khoẻ. Da gã ửng đỏ và nổi cục – trông có vẻ là do quệt vào những gốc cây sồi độc[3] – và mái tóc gã cắt ngắn nham nhở, y như gã đã tự cắt vậy.
“Tôi chỉ mang hoa đến… Vậy thôi! Tôi không…”
“Xuỵt”, gã trai thì thào.
Nhưng những móng tay dài, bẩn thỉu của gã bấm vào da Lydia khiến cô đau đớn và cô lại hét lên. Gã tức tối lấy bàn tay bịt miệng cô. Cô cảm thấy người gã áp sát người cô, cô ngửi thấy cái mùi chua lòm, không tắm gội.
Lydia vặn vẹo đầu. “Cậu làm tôi đau”, cô rền rĩ nói.
“Hẵng câm mồm!” Giọng gã trai rít lên tựa những cành cây bị phủ băng đang nứt ra và những hạt nước bọt bắn lấm tấm trên mặt Lydia. Gã lắc cô điên cuồng như thể cô là một con chó không vâng lời chủ. Một bên giày vài của gã tuột ra trong lúc vật lộn nhưng gã không chú ý và lại bịt miệng cô cho tới khi cô ngừng kháng cự.
Từ trên đỉnh đồi, Jesse Corn gọi: “Lydia? Cô đâu rồi?”.
“Xuỵt”, gã trai lại cảnh cáo, cặp mắt mở to, điên dại. “Mày mà hét lên là sẽ thiệt thân. Hiểu không? Mày hiểu không?” Gã thò tay vào túi quần, giơ ra cho Lydia xem con dao.
Cô gật đầu.
Gã trai đẩy cô đi về phía con sông.
Ôi, Xin đừng. Ôi, xin đừng, Lydia thầm cầu cứu thần hộ mệnh của mình. Ðừng để hắn đưa con đến đó.
Phía bắc sông Paquo…
Lydia ngoảnh nhìn lại và thấy Jesse Corn đứng bên lề đường, cách đấy chừng một trăm thước, dùng bàn tay che ánh nắng của mặt trời chưa lên cao, quan sát xung quanh. “Lydia?”, anh ta gọi.
Gã trai đẩy cô đi nhanh hơn. “Lạy Chúa, đi nào!”
“Này!”, Jesse kêu lên, rốt cuộc cũng nhìn thấy họ. Anh ta chạy xuống đồi.
Nhưng họ đã đến bờ sông, nơi gã trai giấu một chiếc xuồng nhỏ dưới đám sậy và cỏ. Gã đẩy Lydia xuống xuồng và đẩy cho xuồng trôi, chèo mạnh sang bờ bên kia. Gã đưa xuồng lên bờ, kéo cô ra khỏi xuồng. Rồi lôi cô vào rừng.
“Chúng ta đi đâu đây?”, Lydia thì thào hỏi.
“Đi gặp Mary Beth. Mày sẽ được ở cùng cô ấy.”
“Tại sao?”, Lydia thì thào, và lúc này đã nức nở. “Tại sao lại là tôi?”
Nhưng gã trai không nói gì nữa, chỉ lơ đãng búng móng tay và lôi cô đi theo hắn.
* * *
“Ed”, Jesse Corn ấn nút truyền khẩn cấp. “Ôi, thật đẹp mặt. Hắn đã bắt Lydia. Còn tôi thì để hắn thoát.”
“Hắn cái gì?” Gắng thở hổn hến, Ed Schaeffer dừng lại. Ông đã bắt đầu đi về phía sông sau khi nghe thấy tiếng thét.
“Lydia Johansson. Hắn bắt cả cô ấy rồi.”
“Mẹ kiếp”, người cảnh sát to béo lầm bầm, những câu chửi thề của ông cũng chẳng xuất hiện thường xuyên hơn cái việc rút súng khỏi bao đeo bên hông. “Tại sao hắn làm vậy?”
“Hắn khùng”, Jesse nói. “Đó là lý do. Hắn sang sông rồi và giờ tôi tới chỗ ông.”
“Ðược.” Ed suy nghĩ một chút. “Hắn chắc sẽ quay lại lấy các thứ trong căn chòi. Tôi sẽ nấp bên trong, tóm hắn khi hắn vào. Hắn có súng không hả?”
“Tôi không nhìn được.”
Ed thở dài. “Được rồi, ờ… Tới đây càng sớm càng tốt. Gọi cả Jim nữa.”
“Tôi đã gọi rồi.”
Ed thả ngón tay khỏi nút truyền màu đỏ và nhìn qua đám cây bụi về phía con sông. Không có dấu hiệu gì về gã trai cùng nạn nhân mới của gã. Thở hổn hển, Ed chạy trở lại căn chòi và tìm thấy cánh cửa. Ông đá cho nó mở ra. Nó bật về phía bên trong đánh rầm, Ed vội vã bước vào, khom mình trước khe kê súng.
Ông đang quá lo sợ, quá hồi hộp, quá tập trung vào việc sẽ làm khi gã trai xuất hiện, đến nỗi thoạt tiên ông không chú ý gì tới hai hay ba đốm nửa đen nửa vàng vèo qua trước mặt. Cũng không chú ý gì tới cảm giác ngưa ngứa bắt đầu từ cổ rổi chạy xuống dọc theo sống lưng.
Nhưng tiếp theo thì cảm giác ngưa ngứa bùng nổ thành cơn đau bỏng rãy trên hai vai, chạy xuống hai cánh tay và dưới nách. “Ôi, lạy Chúa.” Ed kêu lên, thở hổn hển, nhảy dựng và bàng hoàng nhìn chăm chăm vào hàng chục con ong bắp cày – vàng dữ dằn – đang bu túm trên da thịt. Ông hốt hoảng phủi chúng và hành động ấy càng chọc tức lũ ong. Chúng chích cổ tay ông, lòng bàn tay, đầu ngón tay. Ông thét lên. Cơn đau này kinh khủng hơn mọi cơn đau ông đã trải qua – kinh khủng hơn lần gãy chân, kinh khủng hơn lần ông cầm lấy chiếc chảo gang mà không biết Jean đã nhóm lò.
Rồi bên trong căn chòi tối lờ mờ đi do đàn ong bắp cày tuôn ra từ cái tổ màu xám khổng lồ ở một góc – nó đã bị cánh cửa đập vào sau cú đá của Ed. Rõ ràng hàng trăm con ong đang tấn công ông. Chúng rúc vào tóc ông, đậu trên cánh tay, trên tai, bò vào dưới áo sơ mi và hai ống quần, như thể chúng biết rằng cắm vòi vào vải là vô ích và bởi vậy chúng tìm kiếm da thịt ông. Ông lao về phía cửa căn chòi, xé toạc áo sơ mi và khiếp hãi nhìn thấy từng đám những cái thân cong bóng loáng bám chặt vào ngực và bụng mình. Ông không cố phủi chúng đi nữa mà cứ cắm đầu cắm cổ chạy vào rùng.
“Jesse, Jesse, Jesse!”, Ed kêu lên nhưng nhận ra giọng ông chỉ còn là tiếng thì thầm, những vết ong chích vào cổ đã làm cổ họng thít lại.
Chạy! Ông tự nhủ. Chạy về phía sông.
Và ông chạy. Với tốc lực chưa từng thấy, lao qua cây rừng. Đôi chân guồng lên điên cuồng. Chạy… Tiếp tục chạy, ông tự ra lệnh cho mình. Ðừng dừng lại. Chạy nhanh hơn lũ quỷ sứ bé tí này. Hãy nghĩ về vợ mày. Hãy nghĩ về hai đứa con sinh đôi. Nào, nào, nào… Số ong đã bớt đi mặc dù ông vẫn có thể nhìn thấy ba mươi hay bốn mươi đốm đen bám chặt trên da thịt, những cái thân sau gớm ghiếc cong về phía trước để lại chích ông.
Ba phút nữa mình sẽ đến được sông. Mình sẽ nhảy xuống nước. Chúng sẽ chết đuối. Mình sẽ ổn… Chạy! Thoát khỏi cơn đau này… cơn đau này… Làm sao những con vật nhỏ nhường này lại gây ra đau đớn đến thế? Ôi, đau quá…
Ed chạy như một con ngựa đua, như một con hươu, đạp lên tầng tầng lớp lớp cây bụi, mà qua nước mắt, ông chỉ thấy mờ mờ như sương mù.
Ông sẽ…
Nhưng, khoan nào, khoan nào. Có gì không ổn vậy? Ed Schaeffer nhìn xuống và nhận ra rằng mình không hề chạy.
Ông thậm chí còn không đứng. Ông nằm trên mặt đất cách căn chòi chỉ chừng ba mươi feet. Đôi chân không guồng lên chạy đang giật liên hồi.
Bàn tay Ed rờ tìm máy bộ đàm và tuy ngón cái đã sưng to gấp đôi bình thường vì nọc ong, ông vẫn cố gắng bấm được nút truyền. Nhưng, đúng lúc ấy, cơn rối loạn chức năng bắt đầu từ chân lan đến thân mình, cổ và hai cánh tay khiến ông đánh rơi cái máy. Trong khoảnh khắc, ông nghe thấy giọng Jesse Corn phát ra từ loa, và khi giọng anh biến mất, ông lại nghe thấy tiếng những con ong bắp cày bay vù vù, âm thanh đó dần dần trở nên mảnh như một sợi chỉ và cuối cùng tất cả chìm vào im lặng.
CHƯƠNG HAI
Chỉ Chúa mới có thể cứu chữa cho anh. Và Chúa thì xem ra không định làm việc này.
Điều ấy chẳng thành vấn đề vì Lincoln Rhyme là con người của khoa học chứ đâu phải của thần học, và bởi vậy anh đã không tới Lourdes hay Turin hay một cái lều của giáo phái Baptist để được cầu nguyện, hành lễ, mà anh đã tới đây, tới bệnh viện ở Bắc Carolina này, với hy vọng nếu không hồi phục được hoàn toàn thì chí ít cũng được một phần nào đó.
Bây giờ, Rhyme đang lái chiếc xe lăn Storm Arrow[4] gắn động cơ, đỏ như một chiến hạm nhỏ, theo bệ dốc xuống khỏi chiếc xe thùng, chiếc xe vừa đưa anh, anh chàng phụ tá và Amelia Sachs vượt năm trăm dặm – từ Manhattan tới. Ngậm ống điều khiển bằng đôi môi hoàn hảo, anh thành thạo quẹo chiếc xe lăn và tăng tốc độ để nó đi lên vỉa hè, tiến đến cửa chính Viện Nghiên cứu Thần kinh thuộc Trung tâm Y khoa Đại học Tổng hợp Bắc Carolina ở Avery.
Thom gập lại bệ dốc của chiếc Chrysler Grand Rollx đen bóng, chiếc xe được thiết kế cho xe lăn lên xuống được.