“Cái gì vậy?” Tên chimpira kêu lên, trong giọng nói dường như thoáng chút bồn chồn lo lắng. “Bà có nhìn thấy gì không?”
Mụ Y Tá không trả lời. Mụ ta sờ tay lên chiếc then cửa rồi nhấc nó lên mũi ngửi, miệng hơi hé mở như để hít cái mùi đó vào trong. Mụ ta thò đầu ra ngoài cổng và nhìn ra phố, tôi cảm thấy như bị sét đánh trúng tim: không có dấu vết, trên tuyết không có dấu vết gì. Mụ ta sẽ biết là tôi vẫn chưa đi khỏi.
Tôi nhét chiếc túi nylon vào bên trong áo jacket, kéo khóa lên, nhét viên đá vào trong túi và lặng lẽ đi men theo tường như một cái bóng lẫn giữa các bóng cây khác tới một cửa sổ tầng trệt nơi tôi nhớ rằng lớp lưới bảo vệ đã bị bung ra khỏi bản lề. Đúng như tôi nghĩ, cửa sổ hé mở, bên trong là lớp kính phủ đầy rêu. Tôi nghiêng người về phía trước, nắm chặt khung cửa để giữ thăng bằng và đu người lên khỏi mặt đất trắng xóa tuyết cho tới khi chân tôi bám vào được một cành cây ngả sát tường. Tôi đứng lên trên cành cây đó, người run lẩy bẩy, hơi thở nóng hổi làm mờ lớp kính trên cửa sổ trước khi phả lại vào mặt tôi. Khi đưa tay chùi mặt, tôi giật mình khi thấy khuôn mặt mình xuất hiện trên lớp kính và suýt nữa thì bước hụt ra sau. Phải từ từ, từ từ, tập trung. Tôi quay lại và nhìn qua đám cây bụi. Mụ ta vẫn không cử động, đứng quay lưng về phía tôi và đang quan sát đường phố một cách từ tốn. Gã chimpira đã bước qua ngưỡng cửa ra ngoài và nhìn theo mụ Y Tá, lưng hắn xoay lại phía tôi.
Tôi kéo chiếc cửa sổ nhích ra từng chút một rồi nâng tấm kính lên để nó không kêu cót két và đúng vào lúc đó, cứ như thể nghe thấy tiếng tôi, mụ ta rời mắt khỏi cánh cổng và nhìn về phía con đường lúc trước mụ ta đi qua, chậm rãi quay đầu.
Tôi không đợi nữa. Tôi thò hai chân xuyên qua khe hở rồi đu cả người vào theo, rơi bịch xuống sàn nhà trong tư thế ngồi xổm. Tôi ngồi im trong bóng tối, choáng váng vì tiếng động mà cú nhảy gây ra, hai tay chống lên sàn nhà đợi cho đến khi tiếng động đó biến mất trong các ngóc ngách của những căn phòng cũ kỹ quanh năm cửa đóng kín mít này. Tôi nghe thấy đâu đó trong bóng tối dày đặc phía bên trái mình tiếng chuột chạy ríu rít. Tôi thò tay vào trong túi bật chiếc đèn pin rồi chụm tay che nó lại chỉ để hở một quầng sáng nhỏ chiếu lên sàn nhà. Trong ánh sáng yếu ớt xung quanh tôi, căn phòng hiện ra nhỏ hẹp, sàn nhà lát đá lạnh ngắt, rác rưởi chất đống khắp nơi. Khoảng vài mét ở đằng trước là một khung cửa trống. Ánh đèn của tôi chiếu thẳng ra tới đó không gặp bất cứ trở ngại nào và tiếp tục chạy dọc theo chiều sâu của ngôi nhà. Tôi tắt đèn rồi bò trên sàn bằng cả bốn chi, xuyên qua đám rác rưởi và mạng nhện tới chỗ khung cửa bỏ trống trước khi tiếp tục trườn sâu hơn về phía cuối ngôi nhà, bò qua không biết bao nhiêu phòng cho tới khi chắc rằng bọn chúng không thể nào tìm ra mình được nữa.
Tôi dừng bước, nhìn lại con đường mình vừa đi qua. Tiếng động duy nhất mà tôi nghe thấy là tiếng tim mình đập thình thịch. Các người có nhìn thấy ta không? Các người có nhìn thấy ta không? Đáp lại tôi chỉ có sự im lặng. Đâu đó trong bóng tối vang lên tiếng nước nhỏ giọt đều đều và một thứ mùi rất nặng xộc vào mũi tôi, giống như mùi than bùn, mùi khoáng chất của những bãi nước tù úng.
Tôi vừa bò về phía đó vừa thở hổn hển cho tới khi tôi không còn nghe thấy bất cứ âm thanh nào nữa và dường như một thế kỷ đã trôi qua thì tôi mới dám bật đèn pin lên. Ánh sáng từ ngọn đèn nhảy nhót trên đống đồ đạc chất cao, những thanh gỗ mục gãy trên xà nhà và một mảng vôi vữa, sắt thép lồ lộ. Tôi có thể trốn ở đây suốt đời nếu cần thiết. Tôi lập cập lôi chiếc túi nylon ra khỏi áo jacket. Tôi cứ tưởng tượng ra đó là một vật rắn chắc và xỉn màu, giống như đất sét nhưng hóa ra nó lại nhẹ tênh, như thể nó được làm từ xương khô hay gỗ bông bấc. Tôi thò tay vào trong và chạm phải một vật được gói kỹ bằng một loại giấy mềm và nhẵn, y như giấy gói của hàng thịt, dày và bóng. Máu không thấm qua được bề mặt nhẵn thín của loại giấy này. Tôi phải đứng dựa vào tường một lúc, há miệng ra thở vì cái ý nghĩ vừa xuất hiện trong đầu tôi về cái vật tôi đang giữ thật quá sức chịu đựng. Tôi cậy lớp giấy bọc ở một đầu, giữ lấy đầu kia rồi kéo vật đó ra vừa đúng lúc từ sau lưng tôi, ở tít đằng xa, vang lên một tiếng động mà tôi không thể nào nhầm lẫn được. Tiếng kim loại rít lên. Ai đó đang cố mở cái cửa sổ mà tôi đã chui qua lúc nãy.
Chương 57
Tôi nhét cái gói vào trong áo rồi mò mẫm bò về phía trước, va vào các đồ vật trên đường đi, những tiếng động mà tôi gây ra trong cơn hoảng loạn dội lại từ các bức tường xung quanh tôi. Tôi lại bò từ phòng này sang phòng khác, không còn biết mình đang đi qua những cái gì; những chiếc áo kimono lặng ngắt như xác chết trong góc phòng, một chiếc bàn ăn với bữa tối đã dọn sẵn như thể mọi vật đã hóa đá khi bà mẹ của chủ nhà qua đời. Tôi đã vào rất sâu bên trong ngôi nhà, giữa bóng đêm bất tận cho đến lúc tôi nhận ra là mình không thể tiến thêm được nữa. Tôi đang đứng trong một gian bếp với một chiếc bồn rửa và một cái bếp lò kiểu phương Tây. Phía trước mặt tôi là một bức tường kín mít thay vì một cánh cửa dẫn sang một phòng khác như thường lệ. Không có lối ra. Tôi đã cùng đường.
Tóc tai dựng đứng cả lên vì sợ hãi, tôi chĩa đèn lên tường, lên những đám mạng nhện và đám vôi vữa trên trần. Ánh đèn rọi lên một chiếc tủ bếp làm bằng gỗ mỏng ở góc phòng. Tôi lại gần chiếc tủ, cào cấu vào cánh cửa đến trầy cả đầu ngón tay, chân tôi run lẩy bẩy trên sàn nhà. Cuối cùng cánh cửa tủ cũng bật ra kèm theo một tiếng rít vang tới tận các phòng phía sau.
Tôi soi đèn vào phía bên trong và phát hiện ra rằng đó không phải là một cái tủ bếp mà là một cánh cửa dẫn ra một đầu cầu thang mục nát, đâm thẳng vào khoảng không tối om. Tôi bước vào bên trong, cẩn thận khép cánh cửa lại sau lưng rồi bám vào thành cầu thang ọp ẹp và bước xuống hai bậc. Tôi ngồi xổm và soi đèn ra xung quanh. Đây là một hầm chứa rượu nhỏ hay một kho chứa thực phẩm có chiều rộng khoảng mét rưỡi và chiều dài khoảng ba mét, tường đá rắn chắc. Trên nóc hầm có một chiếc giá chạy dài với những vách ngăn hoen gỉ với hơn chục lọ thủy tinh cũ kỹ đứng chen chúc, bên trong đựng những chất màu nâu đen. Phía dưới mà một lớp tảo dày đặc, màu hồng nhạt, tĩnh lặng, phủ trên bề mặt của một hồ nước. Dưới chân cầu thang là một ao nước tù.
Tôi nhìn lên cánh cửa đang đóng kín ở phía trên và dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng động nào phát ra từ những căn phòng tôi đã đi qua. Im lặng. Tôi đã trèo lên một cành cây và chắc không để lại dấu vết nào dưới cửa sổ, hay giữa các bụi cây. Có thể chúng không hề nghe thấy tôi. Có thể chúng chỉ kiểm tra tất cả những cửa sổ trông khả nghi. Cầu mong là như thế, tôi nghĩ, cầu mong. Tôi quay lại và soi đèn quanh hầm rượu. Trên bức tường bên phải, một mạch nước nhỏ màu nâu sẫm rỉ ra từ một vết nứt trên kẽ đá, đúng như Jason đã từng nói với tôi: những ống nước bị vỡ trong một cơn động đất đã biến tầng hầm của ngôi nhà thành một hồ nước; những vạch rêu xanh và vết ố màu đồng đỏ đánh dấu những thay đổi về mực nước ở đây trong suốt ngần ấy năm. Ánh đèn lướt qua một cái cửa tò vò thấp bằng gạch. Tôi cúi xuống gần sát mặt nước, soi đèn lên mái vòm của chiếc cửa tò vò. Đó là một đường hầm chạy dài, xuyên suốt ngôi nhà, nước ngập lên tới gần đỉnh, có lẽ chỉ còn thiếu có vài centimet. Không thể nào…
Người tôi chợt cứng đờ. Một tiếng động lớn vang vọng qua các dãy phòng phía sau lưng tôi như thể tấm lưới bảo vệ trên cửa sổ lúc nãy đã bị giật tung khỏi bản lề.
Tôi bắt đầu thở gấp vì sợ, miệng há hốc. Giơ chiếc đèn ra phía trước như một thứ vũ khí tự vệ, tôi bước xuống nước, mặt nước tròng trành, vỗ ộp oạp xung quanh như thể tôi vừa chui vào bụng của một con vật đang ngủ yên, khuấy động những thứ đã nằm im bất động trong nhiều năm. Nước lạnh cóng khiến hàm tôi cứng lại còn trong đầu tôi thì nghĩ tới những bộ mặt bí ẩn, những cái mồm và những hàm răng, rằng tôi có thể đang ở hang ổ của một con vật nào đó. Tôi nghĩ tới Kappa, một loại ma cà rồng trong truyền thuyết Nhật Bản, một loại thủy quái ăn thịt người, chuyên túm chân người lôi xuống nước, hút hết máu rồi vứt những cái xác khô và trắng bệch lên bờ. Tôi vừa lội nước vừa giàn giụa nước mắt.
Tôi dừng lại ở phía bên kia tường và quay đầu nhìn lại quãng đường mình đã qua. Xung quanh tôi, mặt nước bắt đầu lặng đi, trở lại với sự yên tĩnh vốn có. Âm thanh duy nhất còn sót lại chính là hơi thở dồn dập của tôi dội lại từ các bức tường.
Rồi một tiếng đổ vỡ loảng xoảng khác lại vang lên, phá tan sự im lặng. Tiếng đồ đạc bị xáo trộn. Tôi tuyệt vọng nhìn quanh, ánh đèn dập dềnh lướt trên trần nhà vàng ố. Không có chỗ nào để trốn cả, không có chỗ nào… Cái cửa tò vò! Tôi quỳ xuống cho tới khi nước ngập ngang vai và gần chạm vào cằm. Tôi vô tình huých phải chiếc giá đỡ khiến vài chiếc lọ rơi xuống nước kêu ùng ục rồi biến mất tăm cùng với những miếng dưa góp, những hạt gạo, những quả mận và con cá chi chi đã trở nên đen đúa và mục ruỗng ở bên trong. Tôi thò tay vào trong miệng hầm sờ lên nóc hầm nhầy nhụa bùn để thăm dò. Chỉ đến khi tôi đã thọc tay vào sâu hết cỡ và má tôi gần dính vào miệng hầm thì tôi có cảm giác nóc hầm bắt đầu nhô lên cao hơn so với mặt nước, tay tôi đã ở ngoài không khí. Tôi rút tay lại và chĩa đèn pin vào đó. Từ miệng hầm tới đoạn nóc hầm nhô lên trên mặt nước không biết có sâu không? Chắc khoảng sáu mươi tới bảy mươi centimet? Không sâu lắm. Không đến nỗi sâu quá. Tôi ngước nhìn về phía cầu thang, lên cánh cửa gỗ mỏng.