Tôi có đọc về khu chợ do mafia điều hành ở Shinjuku. Tôi vẫn luôn tưởng tượng đó là một nơi kỳ diệu giữa thành phố Tokyo điêu tàn vì bom đạn với tấm biển hiệu được làm từ hàng trăm ngọn đèn có thể nhìn thấy từ xa hàng cây số tỏa sáng lấp lánh trên những mái nhà cháy đen của thành phố như mặt trăng treo trên rừng thẳm. Ở đó có những gian hàng bán thịt cá voi đóng hộp, xúc xích hải cẩu, đường, và hẳn phải có không khí của một lễ hội đường phố với những chiếc đèn lồng treo trên cây, tiếng than reo vui trong lửa và những người đàn ông đứng dựa vào các quầy hàng, uống rượu kasutori và nhổ phì phì xuống đất. Hồi đó, kasutori là thứ duy nhất có thể tìm thấy ở Tokyo để uống thay sake, người ta nói rằng uống tới ly thứ ba có thể sẽ bị mù nhưng ai thèm quan tâm tới chuyện đó cơ chứ. Mù một tí thì ăn thua gì khi mà mọi người đều đang hấp hối cả?
“Mẹ của Strawberry rất thích khu chợ Trời Xanh. Bà ấy thường cùng những đứa trẻ khác tới đó để xem chiếc xe hơi của ông trùm yakuza. Đó là chiếc ôtô duy nhất mà người ta thấy ở Tokyo thời đó và đối với mẹ tôi, Trời Xanh là một nơi giống như thiên đàng. Ở đó bà ấy có thể mua quần áo, bánh mì và món thịt hầm zanpan.” Strawberry ngừng lại và nhìn tôi. “Grey-san có biết món thịt hầm zanpan là gì không?”
“Không ạ.”
“Thức ăn thừa. Nấu từ những gì lính Mỹ bỏ lại. Từ bếp ăn của họ. Thật ra trong món đó chả có nhiều thịt lắm. Nếu yakuza cho thêm thịt vào đó thì họ sẽ lấy thêm tiền. Tất cả chỉ xoay quanh tiền và tiền.” Bà ta bắt chước tiếng động sột soạt khi người ta nhét tiền vào ngăn kéo. “Tiền và tiền. Vậy là yakuza vào sâu trong đất liền, tới Gumma và Kanagawa, và lấy trộm thịt của nông dân…” Bà ta ngước mắt lên nhìn tôi. Đột nhiên trông bà ta trẻ hẳn ra, như một đứa bé con ngồi trước mặt tôi, hai tay khoanh lại trên bàn vẻ hối lỗi.
“Gì cơ? Bà định nói gì?”
“Zanpan.” Bà ta nói khẽ, đôi môi tô son đỏ bóng nhẫy khẽ rung lên. “Đó là thứ tôi muốn kể cho Grey-san. Mẹ của Strawberry đã phát hiện ra một thứ rất kỳ lạ trong cái món zanpan mua ở chợ Shinjuku.”
“Kỳ lạ?” Tôi thì thào hỏi lại.
“Grey-san có biết ai điều hành chợ Ánh sáng bao trùm Shinjuku không? Là băng Fuyuki.”
“Thế mẹ bà đã tìm thấy cái gì trong món thịt hầm đó?”
“Những miếng mỡ có mùi vị rất kinh khủng. Không bình thường. Và cả những mẩu xương nữa.” Bà ta nói, gần như không thành tiếng. Bà ta hơi nhoài ra phía trước, nhìn tôi mắt long lanh. “Những đoạn xương rất dài, dài hơn xương lợn và to hơn xương bò.” Trong đôi mắt của bà ta có cái gì đó u uất, như thể đang thấy lại những hình ảnh mà bà ta vốn lấy làm hổ thẹn. Phía sau lưng bà ta, ngoài cửa sổ, nàng Marilyn vẫn đung đưa từ phía trước ra phía sau, như đang bay vào chiếc màn hình vô tuyến quảng cáo sáng đèn của tòa nhà đối diện.
“Thế con vật gì mà lại có xương dài như thế?” Tôi hỏi.
Bà ta nheo mắt và ném cho tôi một nụ cười mỉa, gượng gạo. “Ở chợ Trời Xanh, người ta có thể mua được bất cứ thứ gì. Kể cả oshaka.”
Oshaka, tôi đã đọc thấy từ này ở đâu đó. Oshaka.
Strawberry đang định nói tiếp thì chiếc thang máy pha lê đổ chuông báo hiệu có khách vừa lên khiến cả hai chúng tôi giật mình quay lại nhìn về phía cánh cửa vừa mở tung ra và thấy cái dáng gù gù, lừ đừ không lẫn vào đâu được của mụ Y Tá đang di chuyển trong tiền sảnh, đầu mụ hơi cúi xuống để cho mái tóc bóng lộn che khuất gương mặt. Mụ ta mặc một chiếc áo mưa màu nâu vàng, găng tay cùng màu và rõ ràng là đang đợi ai đó tới nghênh đón.
Strawberry đứng vụt dậy, nhanh như điện, mặt biến sắc dưới lớp son phấn. “Chết tiệt! Cô có nhìn thấy mụ ta tới không?” Bà ta rít lên.
“Không ạ.” Tôi không rời khỏi mắt mụ Y Tá nhưng vẫn cố nhoài người qua bàn sang phía Strawberry và thì thầm vội vã: “Bà nói oshaka nghĩa là gì? Oshaka là cái gì?”
“Suỵt.” Bà ta nói và khẽ rùng mình rụt người lại trong chiếc áo khoác như thể vừa bị giội nước lạnh vào lưng. “Đừng có nói to thế. Ngậm miệng lại ngay. Ở đây không an toàn.”
Fuyuki cử mụ Y Tá tới để chọn một số tiếp viên cho bữa tiệc tại nhà ông ta. Tin tức chẳng mấy chốc lan khắp hộp đêm. Tôi vẫn ngồi bên chiếc bàn mạ vàng của Mama Strawberry, quan sát mụ Y Tá đang trao đổi khẽ với bà ta. Mama Strawberry vừa đứng vừa ghi lại tên các nữ tiếp viên, mặt tối sầm, đầu cúi gằm, vẻ nhẫn nhục. Một lúc sau mụ Y Tá chỉ vào bên trong hộp đêm và nói gì đó. Chiếc bút nhỏ bằng vàng của Mama Strawberry như khựng lại, trượt ra ngoài trang giấy ghi chép. Mắt bà ta lướt qua tôi, và tôi có cảm giác như bà ta định nói gì đó. Nhưng cuối cùng bà ta lại thay đổi ý định, mím chặt môi và viết thêm một cái tên nữa vào danh sách.
“Em đã được chọn,” Jason lướt tới bên bàn và bảo tôi. Vẫn chưa tới giờ đóng cửa nhưng anh ta đã tháo chiếc nơ cà vạt và tay cầm một điếu thuốc. Anh ta đăm chiêu nhìn về phía mụ Y Tá. “Một bữa tiệc nữa. Không thể nào tốt hơn với chúng ta.” Khi thấy tôi không trả lời, anh ta lại thì thào: “Hãy nhìn đôi giày gót nhọn của mụ ta. Em có hiểu anh đang nói gì không?” Mắt anh chậm rãi di chuyển từ chân, tới đùi rồi tới chiếc váy bó sát của mụ ta. “Mụ ta đã mang đến cho anh những ý tưởng lớn, cô bé lập dị ạ. Những ý tưởng mà chắc chắn em sẽ rất khoái.”
Anh ta bỏ đi để bắt kịp mụ Y Tá phía bên ngoài chiếc thang máy pha lê. Anh ta đứng rất gần mụ, mặt anh ta sát vào mặt mụ. Trông mụ ta có vẻ im lặng một cách bất thường khi mụ nghe anh ta nói. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi tay đeo găng dài ngoẵng của mụ.
“Cô có nghĩ là anh ta sẽ thò tay vào trong váy của Ogawa không?”
Mama Strawberry quay lại ghé sát vào tai tôi nói, mắt vẫn nhìn về phía Jason. Tôi có thể ngửi thấy mùi tequila trong hơi thở của bà ta. “Cá với tôi đi nào, Grey. Cá là khi anh ta thò tay vào trong váy của Cô Ogawa thì anh ta sẽ tìm thấy cái gì? Hả?” Bà ta loạng choạng túm lấy tay tôi để giữ thăng bằng vì đã ngà ngà say. “Hả? Nếu cô hỏi Strawberry, thì Jason sẽ tìm thấy một cái chin chin trong quần lót của mụ ta. Nếu cô hỏi Strawberry, thì Ogawa trông giống như một người đàn ông.”
“Strawberry, thịt ở trong zanpan là thịt gì?”
Bà ta níu chặt tay tôi và rít lên: “Đừng có quên đấy, tất cả chỉ là tin đồn thôi. Chớ có nhắc lại với ai.”
Chương 40
史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937
Ba chúng tôi mang bánh bao về cho Thu Kim rồi mới đi. Chúng tôi đi qua các con phố còn đang ngái ngủ, nhìn những ngôi nhà cửa giả bịt kín xung quanh với đôi mắt cảnh giác. Nam Kinh, ngươi là một thành phố ma. Những cư dân của ngươi đâu hết cả rồi? Rúm ró trong im lặng, chui rúc trong những căn nhà khép chặt cửa? Hay trốn dưới các tầng hầm và chuồng nuôi gia súc? Tuyết vẫn rơi lặng lẽ trên vai chúng tôi, lên mũ và áo khoác, rơi xuống đường vào đúng bãi phân dê bên rãnh nước và biến thành màu vàng. Không một bóng người.
“Mọi người nhìn này!” Đi được khoảng mười phút thì chúng tôi đến được một con ngõ nhỏ thông ra đường Trung Ương. Thằng bé chỉ tay lên một dãy nhà ám khói. Chắc hẳn những ngôi nhà này chỉ vừa mới trải qua cơn hỏa hoạn, vì khói vẫn đang bốc lên nghi ngút. “Là hắn đấy. Tên diêm vương. Hắn luôn làm thế mỗi khi đi lùng sục.”
“Lùng sục?” Tôi và ông Lưu đưa mắt nhìn nhau.
“Lùng sục phụ nữ. Đó là thói quen của hắn.”
Chúng tôi vừa định mở miệng hỏi tiếp thì thằng bé đặt một ngón tay lên môi và ra hiệu cho chúng tôi im lặng. “Không phải lúc này.”
Thế rồi nó rón rén bước đi, dẫn chúng tôi đi xa hơn và cuối cùng dừng lại trước một nhà máy có cánh cổng đôi, mái tôn, cao như một tòa nhà hai tầng. Tôi đã đi ngang qua chỗ này tới hàng trăm lần mà chẳng thèm để ý xem đó là tòa nhà gì. Chúng tôi đứng tụm lại với nhau, giậm chân cho tuyết rơi xuống và vỗ hai tay vào nhau cho máu lưu thông trở lại, mắt vẫn nhìn xung quanh với vẻ đề phòng.
Thằng bé lại đặt tay lên môi. “Đây là nơi hắn sống,” nó thì thầm. “Đây là nhà của hắn.” Nó đẩy cánh cửa kêu két một tiếng. Bên trong tòa nhà rất lạnh, tôi chỉ thấy lờ mờ các thứ máy móc, những bức tường bê tông ẩm ướt, và một băng chuyền sản xuất. Một đống giỏ đan bằng vỏ cây sậy kiểu cổ chất đống cạnh tường.
“Cái gì thế này?” Ông Lưu hỏi khẽ và qua giọng nói của ông, tôi có thể thấy là cũng giống như tôi, ông không muốn đi vào bên trong. Cái không khí trong nhà máy này khiến tôi nhớ tới một trong những lò sát sinh ở ngoại ô. “Con đưa chúng ta tới đây làm gì?”
“Hai người muốn biết tại sao người phụ nữ đó lại la hét.”
Hai chúng tôi nhìn vào cánh cửa và do dự.
“Đừng lo.” Thằng bé nhìn thấy vẻ mặt của chúng tôi và nghiêng đầu về phía cả hai. “An toàn mà. Giờ này hắn không có ở đây.”
Thế rồi nó đẩy cánh cửa thêm chút nữa. Một tiếng rít ghê người vang lên khắp tòa nhà sâu hun hút rồi thằng bé bước vào và biến mất sau cánh cửa. Ông Lưu và tôi nhìn nhau. Mắt tôi mờ đi vì sợ, thật phi lí, tôi tự bảo mình, trên đời này làm gì có ma quỷ. Tuy nhiên, cũng phải mất một lúc lâu tôi mới gom đủ dũng khí để mở cửa và bước vào trong. Ông Lưu bước theo tôi, và chúng tôi dừng lại một lúc để cho mắt quen dần với bóng tối.
Đây hẳn là một nhà máy dệt. Tôi có thể nhìn thấy một cái bể lớn để luộc tằm, bốn năm cái máy dệt công nghiệp và hàng tá ống chỉ hình thoi. Thằng bé đang đứng ở góc phòng, bên cạnh một cánh cửa nhỏ, ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Chúng tôi đi tới chỗ nó, tiếng bước chân vang lên một cách lạc lõng và trống trải trong ngôi nhà có trần cao như nhà thờ này. Thằng bé đẩy cánh cửa rồi đứng im, tay vẫn đặt trên núm cửa, chỉ cho chúng tôi thấy một căn phòng, có lẽ trước đây là phòng của quản đốc. Chúng tôi bước tới sau lưng thằng bé. Tôi nhìn vào bên trong căn phòng và lập tức phải đưa tay lên che miệng và vịn vào bức tường bên cạnh, cố gắng giữ cho đầu gối không khuỵu xuống.
“Trời ơi, chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy? Chuyện gì đã xảy ra ở đây?” Ông Lưu thì thào.