Ác quỷ Nam Kinh – Mo Hayder

Tôi đặt tách trà xuống và quay sang nhìn ông. Chưa bao giờ ông nói về Nam Kinh như thế.

“Đúng vậy,” ông nói, tay vuốt nhẹ xung quanh miệng tách trà. “Nó vẫn thường khiến tôi lo nghĩ. Không có đủ đất ở Nam Kinh để xây nghĩa địa. Phần lớn người chết phải chờ tới hàng tháng mới được chôn. Trong số đó, có người không chờ được đã phải chôn đại đâu đó hay… hay chôn chung với người khác trước khi có cơ hội…” Ông lưỡng lự, dừng lại nhìn chăm chăm vào tách trà của mình và đột nhiên trông già hẳn đi. Tôi thậm chí còn nhìn thấy cả những đường gân xanh dưới lớp da nhăn nheo của ông. Tôi dường như còn cảm nhận được cả xương của ông cũng đang nhô lên. “Có một lần tôi nhìn thấy một đứa trẻ,” ông nói tiếp, giọng rất khẽ. “Con bé bị… bị người Nhật xẻo đi một ít thịt, ở đây, ngay dưới xương sườn. Ai cũng nghĩ là con bé đã chết nhưng chẳng ai buồn chôn cất nó. Nó nằm đó nhiều ngày giữa phố đông, nhưng không ai ra khỏi nhà để chôn cất nó. Tôi vẫn không hiểu tại sao họ lại không làm gì. Ở Nam Kinh, chôn cất người khác đem lại vận may…” Rồi ông chìm dần vào im lặng, mắt nhìn chằm chằm vào những ngón tay đang xoay quanh tách trà.

Khi thấy ông có vẻ không muốn nói gì thêm, tôi nhoài người ra phía trước, hạ thấp giọng thành một tiếng thầm thì. “Sử Trùng Minh. Xin ông hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra trong cuộn phim đó?”

Ông lắc đầu.

“Xin hãy làm ơn.”

“Không.”

“Tôi cần phải biết, tôi rất cần.”

“Tôi xin lỗi. Nếu cô muốn biết đến vậy thì cô sẽ phải giúp đỡ việc nghiên cứu của tôi. Đó chính là lý do cô tìm tới đây, đúng không?” Ông nhìn tôi.

Tôi thở dài và ngồi thụt vào trong ghế. “Vâng, đúng thế.”

Ông mỉm cười buồn bã. “Tôi cứ tưởng là tôi đã mất cô rồi. Trong một thời gian dài, tôi nghĩ là cô đang trôi nổi ở đâu đó.” Ông ném cho tôi một cái nhìn dịu dàng và buồn bã, không giống với bất kỳ cái nhìn nào mà ông từng dành cho tôi. Đây là lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi gặp nhau tôi mới có cảm giác là ông cũng quý tôi. Chắc tôi sẽ chẳng bao giờ biết được ông đã trải qua những gì trong mấy tuần lễ chúng tôi không liên lạc với nhau. “Cái gì đã khiến cô quay lại thế?”

Khi tôi đứng dậy để ra về, tôi chỉ cần mở cửa và bỏ đi. Nhưng tôi không kiềm chế nổi. Tôi dừng lại trước cửa, quay lại hỏi ông. “Ông Sử Trùng Minh?”

“Hừm, cái gì nữa?” Lúc này ông đang ngồi bên bàn làm việc. Nghe tôi hỏi, ông ngẩng đầu lên nhìn như thể tôi vừa cắt ngang dòng suy nghĩ của ông.

“Ông từng nói với tôi rằng sự thiếu hiểu biết và tội ác không giống nhau. Ông có nhớ không?”

“Có. Tôi nhớ.”

“Có đúng thế không? Ông có nghĩ thế không? Rằng sự thiếu hiểu biết không phải là một tội ác?”

“Dĩ nhiên rồi,” ông nói. “Dĩ nhiên đó là sự thật.”

“Ông thực sự nghĩ thế chứ?”

“Tất nhiên là tôi nghĩ thế. Sự thiếu hiểu biết có thể được tha thứ. Nó không bao giờ giống như tội ác. Tại sao cô lại hỏi thế?”

“Bởi vì, bởi vì…” Một cảm giác kỳ lạ chợt xâm chiếm lấy tôi khiến tôi cảm thấy mình trở nên mạnh mẽ và thanh thản tới lạ lùng. “Vì đó là một trong những câu hỏi quan trọng nhất trên đời.”

Chương 39

Trời càng về trưa càng lạnh và có vẻ như muốn mưa. Trên phố, xe ôtô xếp thành từng dãy dài trước đèn đỏ, cửa kính đóng chặt, hơi nước bốc lên nghi ngút. Gió xoáy vào từng góc phố, tưởng như mất hút rồi bỗng chốc lại ùa ra, cuốn phăng mọi thứ trên đường đi và ném chúng vào các ga tàu điện ngầm. Tôi xuống tàu đoạn gần nhà Fuyuki, vừa siết chặt áo khoác vừa rảo bước, lấy tòa tháp Tokyo màu trắng đỏ sừng sững giữa trời làm cột mốc dẫn đường, băng qua một loạt những đường phố xa lạ với rất nhiều nhà hàng và tiệm mì nhỏ. Khi đi qua một khu chợ bán buôn có tên là Meat Rush, tôi bước chậm lại và nhìn chòng chọc vào bãi để xe nơi khách hàng đang chất những đống chân giò nặng tới mười kí vào trong những chiếc ôtô. Thịt. Cả người Nhật và người Trung Quốc đều trải qua một thời kì mà thứ protein duy nhất người ta có được là nhờ ăn những con nhộng, châu chấu, rắn, ếch và chuột. Bây giờ, họ có cả những khu chợ bán buôn tên là Meat Rush.

Thịt, tôi nghĩ, dừng chân trước hàng rào sắt bên ngoài căn hộ của Fuyuki. Thịt. Một gara ôtô để mở và một người đàn ông mặc quần yếm công nhân đang đánh bóng một trong những chiếc xe hơi màu đen của Fuyuki. Cửa xe mở toang, chìa khóa tra trong ổ và chiếc đài trên xe hình như đang phát một bài hát của Beatles. Một người làm vườn đang dùng vòi phun nước để làm sạch lối đi. Tôi bám vào các thanh sắt trên hàng rào và thò đầu vào nhìn khu căn hộ. Tất cả các cửa sổ đều lắp kính đen. Chẳng nhìn thấy gì ngoài bóng của những đám mây lạnh lẽo. Sử Trùng Minh cho rằng dù là gì đi nữa thì thứ mà Fuyuki giấu trong căn hộ của ông ta cũng cần được bảo quản kỹ càng. Nhất là khi việc tìm kiếm nguồn thuốc thay thế rất nguy hiểm hoặc vô cùng khó khăn

Có một trạm điện thoại ngay phía đối diện khu nhà nên tôi đi tới đó, chui vào trong và thấy ảnh của các cô gái Nhật mặc quần lót được gài khắp nơi phía sau hộp đút tiền. Tôi lục ví và lôi ra tấm danh thiếp của Fuyuki. Cây Mùa đông. Cây Mùa đông. Tôi gạt mấy sợi tóc vương trên mặt rồi quay số của ông ta, cắn móng tay chờ đợi. Rồi tôi nghe thấy một tiếng click và giọng một phụ nữ Nhật trả lời: “Xin lỗi, số máy này hiện không liên lạc được. Xin vui lòng kiểm tra và gọi lại sau.”

Phía bên trong tòa nhà, người làm vườn bắt đầu cuộn vòi nước lại. Nước chảy tràn xuống những luống hoa, nơi những cây cải bắp dùng để trang trí được buộc chặt lại để tạo dáng và khỏi nở bung trong suốt mùa đông. Tôi gác máy, nhét tấm danh thiếp vào túi và trở về nhà. Tối nay người ta sẽ giao đồ uống mà Mama Strawberry đặt riêng.

Những ngày như thế này Mama Strawberry thường khá vui vẻ và dễ dãi. Tối nay tôi nhất định sẽ phải hỏi lại là tại sao bà ta bảo tôi không nên ăn gì ở nhà Fuyuki.

Khi tôi gặp lại Jason tại hộp đêm tối hôm đó, giữa chúng tôi dường như không có chuyện gì xảy ra. Tôi đang kiểm tra lại lớp trang điểm trong phòng thay đồ thì anh ta đi qua và dừng lại nói: “Anh biết em cần gì và anh biết làm thế nào để em thấy dễ chịu hơn.” Rồi anh ta chỉ tay vào bụng tôi, nháy mắt với vẻ ranh mãnh: “Em chỉ cần làm thế nào để vượt qua nỗi thất vọng cỏn con ấy là được. Chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết khi chúng ta về nhà.” Khi anh ta đi khỏi, tôi nhìn lại mình trong gương và ngạc nhiên khi thấy rằng tôi chẳng có cảm giác gì. Không gì cả. Có cái gì đó thật ghê gớm trong việc tôi đột nhiên có khả năng trở lại chính mình một cách nhanh chóng đến vậy. Chắc là nhờ thực hành.

Đó là một buổi tối rất lạ lùng. Tôi không chuyện trò gì mấy với khách hàng. Các nữ tiếp viên thỉnh thoảng lại hỏi xem tôi có được khỏe không. Thỉnh thoảng khi các cuộc đối thoại lắng xuống, tôi lại bắt gặp Jason đang đứng ở quầy bar, nhìn tôi chằm chằm với một vẻ hết sức tự tin. Có một lần, anh ta khẽ nhướng mày và mấp máy môi nói gì đó mà tôi không hiểu. Tôi không đáp lại.

Mama Strawberry nhấm nháp tequila suốt buổi tối. Tôi quan sát bà bằng đuôi mắt, thấy bà châm thuốc rồi lại quên bẵng mất, để chúng lụi dần đi trong gạt tàn. Bà ta hay ngồi vắt vẻo trên đầu gối khách hàng và mỗi khi bước đi là lại đong đưa từ bên này sang bên kia. Trong một lúc nghỉ chờ khách, tôi đi tới bên bàn của Strawberry và ngồi xuống trước mặt bà. “Strawberry, tôi vẫn cần phải biết. Tôi cần phải biết bà đã nghe những chuyện gì về Fuyuki.”

“Suỵt!” Bà ta rít lên, ném một cái nhìn rờn rợn về phía tôi, đôi mắt kính áp tròng màu xanh da trời của bà ta hút lấy ánh đèn từ các tòa nhà chọc trời bên ngoài và phản chiếu thành những tia lấp lánh như kim cương. “Cô hãy quên đi tất cả những gì mà Strawberry nói. Được không. Tất cả.”

“Tôi không tài nào quên được. Tại sao bà lại bảo tôi không được ăn bất cứ thứ gì?”

Bà ta nuốt thêm một ngụm tequila và lập cập nhét một điếu thuốc vào chiếc đót nhưng phải tới lần thứ ba, thứ tư mới thành công. Bà ta châm thuốc, đôi mắt ướt rượt nhìn khắp mặt tôi. “Nghe này,” cuối cùng bà ta lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và rất khác lạ. “Tôi sẽ kể cho cô nghe một chuyện. Tôi sẽ kể cho cô nghe về mẹ của Strawberry.”

“Tôi không muốn nghe chuyện về mẹ của…”

Mẹ của Strawberry,” bà ta điềm tĩnh nói. “Một người phụ nữ rất thú vị. Khi bà ấy còn là một bé gái, nhỏ bằng chừng này này, thì ở Tokyo, mọi người không có gì để ăn.” Tôi mở miệng định ngắt lời thì bà ta giơ tay lên để ra hiệu cho tôi im lặng. Giọng bà ta căng thẳng, như đang tập trung cao độ, mắt đảo xung quanh một điểm nào đó phía trên đầu tôi. “Cô biết chuyện đó chứ, Grey? Tất cả mọi người đều bị đói.”

“Tôi biết. Người ta chết vì đói.”

“Đúng. Đúng. Chết đói. Thật khủng khiếp. Nhưng rồi đã xảy ra một chuyện. Đối với mẹ tôi, đó là một chuyện kỳ diệu. Các khu chợ của yakuza đột nhiên xuất hiện.”

“Các khu chợ đen.”

“Không ai ở Tokyo gọi đó là đen. Họ gọi đó là xanh. Những khu chợ Trời Xanh.” Bà ta đột nhiên mỉm cười mơ hồ, hai tay dang ra như thể đang miêu tả cảnh mặt trời mọc. “Gọi là Trời Xanh vì đó là nơi duy nhất ở Tokyo không có mây. Nơi duy nhất ở Tokyo có thức ăn.” Bà ta nhìn ra ngoài cửa sổ, qua chiếc xích đu của Marilyn. Tối hôm đó trời mưa. Hệ thống đèn neon từ tòa nhà Yotsuya Sanchome kêu phùn phụt hắt những chùm ánh sáng yếu ớt xuống đường phố ẩm ướt phía dưới hàng trăm mét. Trong màn mưa, chân trời bỗng hiện ra thấp thoáng, lung linh như một bức tranh minh họa trong chuyện cổ tích. “Cái chợ to nhất nằm ở phía đó.” Bà ta chỉ ra phía ngoài trời đêm. “Ở Shinjuku. Ánh sáng bao trùm Shinjuku.”

Tác giả: