Tôi chớp mắt nhìn ông. Ông đã nhầm. Tôi không hề nói thế.
“Có thể là cái gì đó… lớn chừng này.” Ông nói và giơ hai tay ra để diễn tả một vật có kích thước của một con mèo nhỏ.
“Không, tôi không nhìn thấy gì cả.”
Sử Trùng Minh mím chặt miệng lại và nhìn tôi một lúc lâu, nét mặt không hề thay đổi. Tôi có thể nhìn thấy mồ hôi bắt đầu vã ra trên trán ông. Ông thò tay vào túi rút ra một chiếc khăn mùi soa lau trán. “Đúng vậy, tôi thấy là cô đã thay đổi ý định, có đúng không?” Ông cất chiếc khăn mùi soa trở lại vào túi rồi thở dài nói.
Tôi búng tàn thuốc xuống đất và cau mày nhìn ông.
“Tôi đã tốn biết bao thời gian cho cô và giờ đây cô thay đổi ý định.”
Ông ra về bằng cửa chính và tôi trở về phòng của mình. Hai chị em sinh đôi đang quanh quẩn trong nhà nấu nướng và chành chọe nhau. Trong khi tôi nói chuyện với Sử Trùng Minh thì Jason đã đến quán One Stop Best Friend Bento mua cơm, cá và dưa góp. Khi tôi bước vào phòng thì anh đang nằm trên đệm đợi tôi, thức ăn bày trên bàn trang điểm cùng với một chai rượu mận và hai chiếc ly xinh xắn màu tím nhạt. Tôi khóa cửa và bước tới bên tấm đệm, vừa đi vừa cởi áo khoác.
“Thế nào? Ông bạn già đó là ai vậy?”
Tôi quỳ xuống ngay trước mặt anh. Tôi chỉ mặc độc chiếc áo ngủ mà không mặc quần nịt. Anh tách hai đầu gối của tôi ra và luồn tay vào giữa hai đùi tôi. Cả hai chúng tôi đều nhìn xuống khoảng da thịt mà anh vừa khai phá. Tôi nghĩ chúng hơi cổ điển, không giống như vẻ đẹp hiện đại bây giờ. Không hiểu sao Jason lại thích chúng đến thế.
“Ông bạn ở trong vườn là ai đấy?”
“Một người ở trường đại học.”
“Ông ta nhìn em như thể em đang nói những điều có cánh.”
“Không hẳn thế. Bọn em nói về công trình nghiên cứu của ông ấy. Không thể gọi đó là những lời có cánh.”
“Tốt. Anh không muốn em nói những lời có cánh với bất cứ ai. Em ở với ông ta quá lâu.”
“Quá lâu ư?”
“Đúng vậy.” Anh nói và xòe tay ra trước mặt tôi. “Thấy không?”
“Thấy gì?”
Anh từ từ gập những ngón tay vào lòng bàn tay, ánh đèn lờ mờ trong phòng lấp lánh trên những móng tay gẫy. Tôi nhìn những ngón tay của anh như bị thôi miên. Chúng từ từ vươn ra từ lòng bàn tay, nhẹ nhàng bay vào không khí, ngang dưới mắt tôi, rồi vỗ cánh như một con chim, bay chệnh choạng rồi bổ nhào xuống. Đó là con sếu ma thuật của Sử Trùng Minh. Con sếu của quá khứ.
“Anh theo dõi bọn em,” tôi nói, mắt vẫn không rời khỏi bàn tay giả làm con sếu của anh. “Lần gần đây nhất.”
Anh cười rồi làm con chim bay xuống một cách chậm rãi và duyên dáng. Con chim uốn lượn, bay lên rồi lại chao xuống. Tay anh giơ lên hạ xuống, uốn lượn, miệng huýt sáo. Đột nhiên, con chim quay đầu và bay tới trước mặt tôi, những ngón tay của anh chĩa ra phía trước, nhắm thẳng mặt tôi vỗ cánh. Tôi bật người ra sau, thở gấp.
“Đừng làm thế!” Tôi nói. “Đừng.”
Anh vẫn cười. Anh ngồi dậy, túm lấy tay tôi kéo lại gần. “Em có thích thế không?”
“Anh đang chọc em.”
“Chọc em à? Không. Anh không chọc em. Anh biết thế nào là nghiên cứu khoa học.”
“Không.” Tôi cố cưỡng lại vòng tay của anh. “Em không hiểu nổi anh nữa.”
“Em sẽ không làm nên trò trống gì đâu.” Anh cười và dịu dàng kéo tôi lại gần hơn nữa, thả đầu xuống tấm nệm cầm lấy tay tôi đưa lên miệng, dùng lưỡi liếm lòng bàn tay tôi rồi cắn nhẹ vào đó. “Em sẽ không làm nên trò trống gì nếu cứ giả vờ trước mặt anh.”
Tôi nhìn hàm răng trắng muốt và sạch bóng của anh, thán phục sự khỏe khoắn và sạch sẽ của chúng. “Em không giả vờ,” tôi lẩm bẩm.
“Em lại quên rồi đúng không?” Anh luồn hai tay vào giữa khe đùi, vuốt ve chỗ kín của tôi, mắt không rời khỏi gương mặt tôi. Tôi khẽ chạm tay lên môi anh khi anh nói: “Em lại quên rằng anh chỉ cần nhìn em là anh biết hết mọi thứ, mọi thứ đang diễn ra trong đầu em.”
Chương 33
史 Nam Kinh, ngày 19 tháng Mười hai năm 1937 (ngày mười bảy tháng Mười một âm lịch)
Mấy trăm năm trước khi chiếc la bàn lớn bằng đồng dùng để đo phương vị được chuyển từ thành phố Lâm Phần tỉnh Sơn Tây tới núi Tử Kim thì nó đột nhiên bị hỏng một cách hết sức khó hiểu. Người ta sửa chữa bằng mọi cách nhưng chiếc la bàn vẫn không hoạt động. Mấy phút trước đây, khi hé mắt qua tấm chắn bên cửa sổ nhìn về núi Tử Kim tôi chợt nghĩ có khi là vì ngay khi được đặt lên sườn núi băng giá, dưới những vì sao trên bầu trời lạnh lẽo thì chiếc đồng hồ cũng đã đọc được những gì mà Thu Kim nhìn thấy. Tương lai của Nam Kinh. Và ngay sau khi nhìn thấy cái tương lai đó, nó đã quyết định bỏ rơi thành phố này.
Đủ rồi. Tôi phải ngừng suy nghĩ theo kiểu này, nào là các linh hồn, các thầy bói, các nhà tiên tri. Tôi biết tất cả những chuyện này đều hết sức điên rồ, nhưng dù đang đứng yên ổn trong chính thư phòng của mình nhưng tôi vẫn không khỏi rùng mình khi nghĩ tới việc bằng cách nào đó mà Thu Kim có thể nhìn thấy tất cả những chuyện này trong các giấc mơ của cô ấy. Đài phát thanh đưa tin rằng, đêm qua nhiều tòa nhà gần trại tị nạn đã bị thiêu cháy, vào lúc tôi và ông Lưu đang trốn trên mái nhà. Trung tâm y tế của thành phố Nam Kinh cũng nằm trong số đó. Không hiểu bệnh nhân sẽ phải dời đi đâu? Chúng tôi định sinh con ở đó, giờ thì không biết phải làm thế nào nữa.
Bất chấp những gì xảy ra sáng nay, tôi và ông Lưu vẫn không thể nói được một câu là: “Có lẽ chúng ta đã sai rồi.” Khi rời khỏi ngôi nhà hoang chiều hôm đó, sau khi lính Nhật bỏ đi và đường phố trở lại yên tĩnh, cả hai không ai nói với nhau câu nào. Chúng tôi chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh đến thế, trong đầu chỉ có độc một ý nghĩ: dân thường. Dân thường. Dân thường. Chúng đang giết hại dân thường. Tất cả những gì tôi đã tưởng tượng ra, tất cả những gì tôi tự thề với mình, đã bắt Thu Kim phải tin hóa ra đều sai cả. Quân Nhật không phải là những người văn minh. Chúng tàn sát dân thường. Đúng là không có người phụ nữ nào trong đám đông đó, nhưng ngay cả điều này cũng không khiến nỗi phiền muộn của tôi thuyên giảm được bao nhiêu. Không có người phụ nữ nào. Tôi cứ nhắc đi nhắc lại từ này trên đường về nhà. Không có người phụ nữ nào.
Khi tôi xô cửa bước vào nhà, thở hồng hộc, cả người đẫm mồ hôi, mắt tê dại, Thu Kim giật nảy người, đánh đổ cả cốc nước trên bàn. Cô ấy đã khóc suốt đêm hôm qua. Má cô ấy vẫn còn hoen nước mắt. “Em cứ nghĩ là mình đã chết rồi,” cô ấy nói rồi bước về phía tôi. Cô ấy sờ lên mặt tôi. Rồi cô ấy nhìn thấy vẻ mặt tôi và dừng lại. “Trùng Minh, có chuyện gì vậy?”
“Không có gì,” tôi khép cửa rồi đứng dựa lưng vào đó một lúc để lấy lại hơi.
“Em thì có. Em tưởng mình đã chết rồi.”
Tôi lắc đầu. Trông cô ấy tái nhợt và vô cùng yếu ớt. Bụng cô ấy rất to nhưng thân hình vẫn mảnh mai. Bản năng mới dễ làm chúng ta thương tổn làm sao, tôi nghĩ và nhìn xuống bụng của cô ấy, nơi con trai của chúng tôi đang lớn lên từng ngày. Chẳng bao lâu nữa con chúng tôi sẽ ra đời, nỗi lo lắng, sợ hãi, sự nguy hiểm sẽ nhân đôi và cả nỗi đau nữa, cũng sẽ được nhân đôi. Tôi sẽ phải bảo vệ thêm một sinh mạng nữa.
“Trùng Minh, chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Tôi nhìn cô ấy và liếm môi.
“Chuyện gì thế Trùng Minh, lạy trời, xin mình hãy nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Không có thức ăn. Tôi không thể tìm thấy thức ăn.”
“Mình chạy như ma đuổi về đây chỉ để nói với em rằng mình không tìm thấy thức ăn?”
“Xin lỗi mình, tôi muốn xin lỗi mình.”
“Không đúng,” cô ấy nói và đứng sát lại gần tôi, nhìn thẳng vào mặt tôi. “Không đúng, có chuyện gì đó quan trọng hơn thế. Mình đã nhìn thấy nó. Mình đã nhìn thấy những gì mà em đã linh cảm từ trước, có đúng không?”
Tôi ngồi phịch xuống ghế thở hắt ra. Tôi cảm thấy mình là người đàn ông mệt mỏi nhất trên đời này. “Mình hãy ăn mấy quả trứng chào đời đó đi,” tôi nói. “Làm ơn, hãy ăn nó vì tôi, và vì mặt trăng bé bỏng của chúng ta.”
Thật bất ngờ là lần này cô ấy lại nghe lời tôi. Như thể cô ấy cảm nhận được nỗi tuyệt vọng của tôi. Cô ấy không ăn trứng nhưng cô ấy có một số hành động chứng tỏ cô ấy có nghĩ tới ý kiến của tôi. Thay vì lao vào một cơn cuồng tín như mọi khi, cô ấy ăn những hạt đỗ mà cô ấy để dành nhồi gối cho em bé. Cô ấy lấy gối từ trên gác xuống, rạch nó ra rồi trút các hạt đỗ vào chảo và nấu chín. Cô ấy đưa cho tôi một ít nhưng tôi từ chối. Tôi nhìn cô ấy ăn, mặt không có biểu hiện gì.
Bụng tôi đau không chịu nổi, giống như có một vết thương đang há mõm to bằng quả bầu nằm ngay dưới xương sườn. Đây chắc là triệu chứng của bệnh đói dù tôi mới phải nhịn đói có ba ngày. Nhưng rồi chắc chắn đây mới chính là điều tệ hại nhất, khi chúng tôi chuẩn bị đi ngủ thì cái mùi thức ăn ở đâu lại bay đến. Cái mùi thịt nướng thơm ngon, quyến rũ khủng khiếp, khiến tôi gần như phát điên. Tôi chỉ chực đứng phắt dậy và phi ra ngoài đường một lần nữa bất chấp những mối hiểm nguy đang chờ đợi tôi ở ngoài đó. Chỉ khi tôi nhớ lại gương mặt những tên sĩ quan Nhật đó, nhớ lại những chiếc xe tăng lao ầm ầm trên đường phố và âm thanh của những khẩu súng trường khi lên đạn thì tôi mới đành ngã vật xuống giường và hiểu rằng mình phải tìm một cách khác.
史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937
Chúng tôi ngủ chập chờn, chân vẫn đi nguyên giày. Gần sáng chúng tôi bị đánh thức bởi những tiếng la hét kinh hoàng. Dễ dàng nhận thấy đó là giọng của một người phụ nữ và dường như chỉ cách đây vài dãy phố. Tôi nhìn sang Thu Kim, cô ấy đang nằm im, gối đầu lên chiếc gối mây, mắt dán vào trần nhà. Trong suốt năm phút liền, tiếng la hét mỗi lúc một thảm thiết rồi nhỏ dần thành những tiếng nức nở trước khi tắt hẳn. Sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng một chiếc môtô gầm rú lao qua hẻm khiến các tấm cửa chớp rung lên và suýt làm đổ tách trà đặt ở đầu giường.