“Không,” tôi nói, tự lấy làm ngạc nhiên vì sự dứt khoát trong giọng nói của mình. “Thật sự là không, đó không phải là lý do tôi đến đây. Tôi thậm chí chưa bao giờ nghe nói về gấu Karuizawa.” Và rồi tôi không thể cưỡng lại được nữa. Tôi quay người và liếc trộm về phía chiếc máy chiếu phim ở cuối phòng. “Tôi…” Tôi miễn cưỡng đưa mắt trở lại chỗ Sử Trùng Minh. “Ý tôi nói là tôi gặp ông không phải đề bàn về y học Trung Hoa.”
“Không phải?” Ông kéo kính xuống và nhìn tôi với vẻ hết sức tò mò. “Không phải sao?”
“Không phải.” Tôi lắc đầu cả quyết. “Không phải thế.”
“Vậy…” Ông ngừng lại. “Vậy thì cô tới đây là vì…?”
“Vì Nam Kinh.”
Ông ngồi xuống bàn, mặt cau lại. “Xin lỗi, cô vừa nói cô là ai nhỉ?”
“Tôi là một sinh viên đến từ đại học Luân Đôn. Hay ít ra thì cũng từng là sinh viên. Nhưng tôi không nghiên cứu về y học Trung Hoa mà về tội ác chiến tranh.”
“Đủ rồi.” Ông nói và giơ tay lên. “Thế thì cô tìm nhầm người rồi, tôi không thể giúp gì cho cô được.”
Ông toan đứng dậy rời khỏi bàn, nhưng tôi đã vội vàng mở chiếc túi du lịch của mình, lôi ra một tập tài liệu được cột chặt lại với nhau bằng một sợi dây thun, lóng ngóng để rơi vài tờ, nhặt chúng lên và đặt chúng một cách lộn xộn lên chiếc bàn giữa hai chúng tôi.
“Tôi đã dùng nửa đời mình nghiên cứu về cuộc chiến ở Trung Quốc.” Tôi tháo sợi dây thun và xếp tất cả các ghi chép của mình lên bàn. Đó là những bản dịch viết tay nhỏ li ti của tôi, bản sao lời khai của các nhân chứng mà tôi thu thập được từ các cuốn sách trong thư viện, những bức phác thảo do tôi tự họa để giúp mình hình dung rõ hơn về những gì đã xảy ra. “Nhất là về Nam Kinh. Ông hãy nhìn xem,” tôi giơ lên cho ông ta xem một tờ giấy có nhiều nếp gấp đầy những chữ nhỏ li ti. “Đây là một cuộc xâm lược, đây là biểu đồ về hệ thống thứ bậc trong quân ngũ của quân đội Nhật, tất cả đều được viết bằng tiếng Nhật, ông thấy không. Tôi đã viết nó vào năm mười sáu tuổi. Tôi biết một ít tiếng Nhật và tiếng Trung.”
Sử Trùng Minh quan sát tất cả với một sự im lặng, khẽ ngả người ra sau, nét mặt biểu lộ một sắc thái kỳ lạ.
Các bức vẽ và biểu đồ của tôi không đẹp, nhưng tôi không còn chút bận tâm nào về chuyện đó nữa khi mọi người cười nhạo chúng. Đối với tôi, mỗi biểu đồ, mỗi bức vẽ đều có ý nghĩa quan trọng, mỗi thứ đều giúp tôi sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu và nhắc nhở tôi rằng mỗi ngày tôi lại tiến gần hơn tới sự thật về một chuyện gì đó đã xảy ra ở Nam Kinh vào năm 1937. “Và đây nữa…” Tôi giở một bức tranh và giơ nó lên. Đó là một bức vẽ trên khổ giấy A3 với những nếp gấp sau nhiều năm đã trở nên trong suốt. “Đây chính là thành phố Nam Kinh cuối cuộc xâm chiếm. Tôi đã mất một tháng để hoàn thành nó. Các xác chết chất thành núi! Ông có thấy không?” Tôi ngước mắt nhìn ông với vẻ háo hức. “Nếu ông nhìn kỹ, ông có thể thấy tôi đã vẽ đúng. Ông có thể kiểm tra bây giờ nếu ông muốn. Chính xác trong bức tranh này có ba trăm nghìn tử thi và…”
Sử Trùng Minh đột ngột đứng dậy và đi vòng sau bàn ra phía cửa. Ông khép cửa lại rồi đến bên chiếc cửa sổ nhìn xuống khu bắn cung và hạ tấm rèm che xuống. Ông di chuyển với chân trái hơi khập khiễng, và đằng sau gáy, tóc của ông mỏng tới mức gần như hói, lớp da đầu nhăn nheo như thể không có xương sọ và ta có thể nhìn thấy những nếp gấp và đường rãnh của bộ não.
“Cô có biết đất nước này nhạy cảm tới mức nào không mà lại dám nhắc đến Nam Kinh?” Ông quay trở lại bàn làm việc và từ từ ngồi xuống với cái kiểu của người bị viêm khớp, vươn người sang phía tôi rồi nói khẽ. “Cô có biết ở Nhật, cánh hữu mạnh như thế nào không? Cô có biết nhiều người đã bị tấn công chỉ vì dám nhắc đến chuyện đó? Người Mỹ…” Ông giơ một ngón tay run rẩy chỉ vào mặt tôi như thể tôi là đại diện gần nhất của nước Mỹ, “người Mỹ, MacAthur, đã đảm bảo cho cánh hữu trở thành những kẻ gieo rắc sợ hãi như ngày nay. Nói một cách đơn giản là chúng ta sẽ không bàn về chuyện này nữa.”
Tôi hạ thấp giọng thành tiếng thầm thì. “Nhưng tôi đã đi bằng ấy đoạn đường chỉ để được gặp ông.”
“Vậy thì cô hãy quay lại,” ông nói. “Cô đang nói về quá khứ của tôi. Tôi không đến đây, đến mảnh đất Nhật Bản mà tôi chưa từng nghĩ rằng mình sẽ tới này để thảo luận về những sai lầm của quá khứ.”
“Ông không hiểu. Ông phải giúp tôi.”
“Phải giúp cô?”
“Về một việc cụ thể mà người Nhật đã làm. Tôi biết khá nhiều về các tội ác chiến tranh, như những cuộc thi giết người hay những vụ cưỡng hiếp. Nhưng tôi đang nói về một tội ác cụ thể, một chuyện ông đã tận mắt chứng kiến. Không ai tin là một chuyện như thế có thể xảy ra, họ đều nghĩ là tôi bịa đặt.”
Sử Trùng Minh hơi cúi người ra phía trước và nhìn thẳng vào tôi. Mỗi khi tôi nói với người khác về điều mà tôi đang nỗ lực khám phá, mọi người đều nhìn tôi với một vẻ thương hại và hoài nghi, cái nhìn có hàm ý “Chắc là cô tự tưởng tượng ra. Nhưng tại sao chứ? Tại sao cô lại có thể bịa ra một chuyện kinh tởm như thế?” Nhưng cái nhìn của Sử Trùng Minh thì khác hẳn, đó là một cái nhìn giận dữ và khó chịu. Khi ông cất tiếng nói, giọng ông trầm hẳn xuống và đầy vẻ cay đắng. “Cô đang nói cái gì vậy?”
“Có nhân chứng đã khai về những gì đã xảy ra. Tôi đã đọc điều đó nhiều năm trước nhưng tôi không thể tìm lại được cuốn sách đó vì vậy tất cả mọi người đều cho rằng tôi đã bịa ra mọi chuyện và rằng cuốn sách đó không hề tồn tại. Nhưng không sao, vì trên thực tế còn có hẳn một đoạn phim được quay tại Nam Kinh vào năm 1937. Tôi đã phát hiện ra nó sáu tháng trước đây. Còn ông thì luôn biết rõ về nó.”
“Thật là lố bịch. Không hề có đoạn phim nào cả.”
“Nhưng tên của ông đã xuất hiện trong một tập san của trường đại học. Tôi thực sự đã nhìn thấy tên ông ở trong đó. Tập san đó nói rằng ông đã ở Nam Kinh. Họ nói rằng ông đã chứng kiến vụ thảm sát Nam Kinh, chứng kiến vụ hành hình kiểu đó. Họ nói rằng trong thời gian ông giảng dạy tại đại học Giang Tô năm 1957 đã xuất hiện những tin đồn cho rằng ông chính là người giữ đoạn phim đó. Đó là lý do tại sao tôi tới đây. Tôi cần được biết… Tôi cần được biết những tên lính đó đã làm gì. Chỉ cần một chi tiết thôi để tôi biết được là tôi đã không tưởng tượng ra chuyện đó. Tôi chỉ cần biết vào lúc nào, họ đã bắt người phụ nữ đó vào lúc nào và…”
“Xin cô!” Sử Trùng Minh đấm mạnh tay xuống bàn và đứng dậy. “Chẳng lẽ cô không có chút mủi lòng nào hay sao? Đây không phải là một chuyện để tán gẫu!” Ông vớ lấy một chiếc gậy đằng sau ghế và đi tập tễnh ra phía cửa ra vào, mở cửa và tháo tấm biển đề tên gắn phía ngoài. “Cô nhìn thấy chưa?” Ông hỏi, lấy cây gậy khép cánh cửa lại. Ông giơ tấm biển đề tên cho tôi xem, gõ gõ lên đó để giải thích điều mình nói. “Giáo sư xã hội học. Xã hội học. Lĩnh vực nghiên cứu là y học Trung Hoa. Tôi không còn dính dáng gì đến Nam Kinh nữa. Không có phim ảnh gì cả. Mọi chuyện đã kết thúc. Bây giờ tôi rất bận và…”
“Xin hãy làm ơn,” tôi túm chặt lấy mép bàn, mặt đỏ bừng. “Xin ông hãy làm ơn. Đoạn phim đó có tồn tại. Có mà. Trong tập san có nhắc đến nó, chính tôi đã đọc thấy. Đoạn phim của Magee không quay sự kiện đó nhưng đoạn phim của ông thì có. Đó là đoạn phim duy nhất trên đời này và…”
“Suỵt,” ông nói và chỉ cây gậy về phía tôi. “Thế là đủ rồi.” Răng ông dài và biến màu, trông như bộ xương hóa thạch khai quật được ở sa mạc Gobi, vàng bóng vì ăn nhiều gạo và thịt dê. “Vậy đấy, tôi hoàn toàn tôn trọng cô. Tôi rất tôn trọng cô và vụ điều tra có một không hai của cô. Đúng là có một không hai. Nhưng cho phép tôi nói thẳng nhé: chẳng có đoạn phim nào cả.”
Khi bạn đang tìm mọi cách để chứng minh với mọi người rằng bạn không bị điên thì những người như Sử Trùng Minh đúng là không giúp gì được. Bạn đọc một thông tin trên giấy trắng mực đen nhưng chỉ vài phút sau người ta lại bảo với bạn rằng chuyện đó không hề tồn tại, mà là do bạn tưởng tượng ra. Nếu bạn không điên sẵn thì những chuyện như thế cũng sẽ làm bạn phát điên! Chuyện này vẫn lặp đi lặp lại với tôi, y như những gì đã xảy ra giữa tôi với bố mẹ tôi và những người ở bệnh viện năm tôi mười ba tuổi. Ai cũng nói vụ hành hình là do tôi tưởng tượng ra, là một triệu chứng của bệnh điên mà tôi mắc phải chứ một tội ác khủng khiếp như thế không thể nào xảy ra trên thực tế. Rằng lính Nhật có thể man rợ và nhẫn tâm nhưng họ cũng không thể làm chuyện đó, một chuyện mà không lời nào có thể diễn tả được, một chuyện mà ngay cả các bác sĩ và y tá trong bệnh viện, những người vẫn tự cho rằng chưa có chuyện gì khủng khiếp mà họ chưa được chứng kiến, đều phải hạ giọng khi nhắc tới. “Tôi chắc chắn cô tin rằng cô đã đọc nó. Tôi chắc chắn đối với cô nó thật sự tồn tại.”
“Đó là sự thực,” tôi nói, nhìn xuống nền nhà, khuôn mặt đỏ bừng vì xấu hổ. “Cháu đã đọc được trong một cuốn sách.” Đó là một quyển sách bìa màu da cam với một tấm ảnh bìa chụp những xác chết chất đống bên bến cảng Mi Đàm. Nó tràn ngập những câu chuyện đã xảy ra ở Nam Kinh. Trước khi đọc quyển sách này, tôi không hề biết gì về Nam Kinh. “Cháu đã tìm thấy nó ở nhà.”
Một bà y tá vốn không ưa tôi thường mò đến giường tôi vào ban đêm khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ. Dù tôi đã cố tình nằm im thin thít giả vờ ngủ say nhưng bà ta vẫn cúi xuống giường và thì thầm vào tai tôi, hơi thở nóng hổi và dính nhớp. “Để tao nói cho mày biết nhé,” bà ta lầm bầm hết đêm này sang đêm khác, trong khi những hình hoa trên rèm cửa in thành những chiếc bóng bất động trên trần nhà. “Mày là đứa có trí tưởng tượng bệnh hoạn nhất mà tao đã từng gặp trong suốt mười năm làm cái nghề khốn kiếp này. Mày điên thật rồi! Không chỉ điên mà còn xấu xa nữa.”
Nhưng tôi không hề bịa ra chuyện đó…