Giới thiệu nội dung
Grey tới Tokyo để theo đuổi một nỗi ám ảnh. Cô muốn tìm kiếm một cuộn phim về cuộc thảm sát khủng khiếp ở Nam Kinh năm 1937 bị thất lạc. Nhiều người cho rằng đoạn phim đó không hề tồn tại.
Người duy nhất có thể giúp cô là một nạn nhân còn sống sót sau vụ thảm sát. Ban đầu, người đàn ông hiện đang làm việc tại một trường đại học ở Tokyo, suốt ngày vùi đầu vào sách vở và luôn đề phòng người lạ này dường như không có gì để chia sẻ với cô.
Cô đơn và tuyệt vọng trong một thành phố xa lạ, Grey đành chấp nhận làm tiếp viên tại một hộp đêm cao cấp; chính tại đây, cô đã gặp một ông trùm xã hội đen già, tàn tật và luôn được bảo vệ bởi những tên tội phạm khét tiếng. Người ta đồn rằng ông ta vẫn sống khỏe mạnh nhờ một thần dược bí ẩn, thứ thần dược khiến kẻ khác muốn chiếm đoạt bằng mọi giá. Và từ đó, Grey đã phát hiện ra những sự kiện khủng khiếp nối liền hiện tại với quá khứ…
Nhận xét về tác phẩm
“Một cuốn sách ám ảnh, hồi hộp, đậm chất thơ, văn phong tuyệt vời và vô cùng hấp dẫn.”
– Harlan Coben
“Một câu chuyện tuyệt vời, một người kể chuyện tuyệt vời!”
– Colin Dexter
“Choáng váng… sởn gai ốc… tác giả tài năng người Anh đã dệt nên một bí ẩn đầy quyến rũ bắt nguồn từ sự tàn bạo của quân đội Nhật trong Thế Chiến II.”
– Entertainment Weekly
“Khi đọc một cuốn tiểu thuyết, hiếm khi người ta phải đưa tay lên bịt chặt miệng để chặn những tiếng thở hổn hển kinh hoàng. Với Ác Quỷ Nam Kinh… không thể không tìm cách ngăn những tiếng hổn hển đó bật ra.”
– Daily Express
“Niềm say mê (của Hayder) dành cho cuộc sống và con người ở thành phố này hiện lên quá rõ ràng và đã biến tác phẩm kinh dị rùng rợn này thành một điều gì đó sẽ lưu lại lâu dài trong tâm trí độc giả.”
– Red Magazine
“Rùng rợn… ngòi bút lão luyện của Hayder đã chồng chất hết sự hồi hộp này đến sự hồi hộp khác. Ác Quỷ Nam Kinh là cuốn tiểu thuyết lịch sử bi thương và hấp dẫn, một câu chuyện kinh dị diễn tiến nhanh đến mức tôi phải ngồi tới sáng để đọc đến trang cuối cùng, sợ rằng giấc ngủ của mình sẽ bị xáo trộn bởi những hình ảnh rùng rợn của nó.”
– Daily Telegraph
Giới thiệu tác giả và tác phẩm
Mo Hayder sinh năm 1962 tại Luân Đôn, con gái một giảng viên đại học. Năm 1978, bà rời bỏ gia đình và làm nhiều công việc khác nhau (phục vụ bar, bảo vệ…) trước khi đến Nhật năm 25 tuổi. Sau hai năm ở Nhật, bà tiếp tục đến nhiều nơi trên thế giới, quan sát và thấu hiểu cuộc sống, văn hóa của nhiều dân tộc. Niềm đam mê phim hoạt hình đã đưa bà tới Los Angeles. Sau khi nhận bằng Thạc sĩ chuyên ngành Điện ảnh tại American University, bà về Anh lấy bằng Thạc sĩ Sáng tác tại Bath Spa University. Hiện nay, bà sống cùng chồng và con gái tại Somerset (Anh), tham gia giảng dạy Sáng tác cho các khóa đào tạo Thạc sĩ của Bath Spa.
Ác quỷ Nam Kinh, ra đời năm 2004, nằm trong danh sách bestseller của Sunday Times, đồng thời giành được CWA Silver Dagger – giải thưởng Tiểu thuyết hình sự của năm do Hiệp hội Nhà văn Hình sự trao tặng; giải thưởng Tác phẩm hình sự xuất sắc nhất của tạp chí Elle và Prix du Polar SNCF – giải thưởng văn học danh giá do độc giả Pháp bình chọn. Ra đời từ những trải nghiệm của Hayder tại châu Á, tác phẩm đã được thai nghén từ khi bà còn trẻ, trong một lần tình cờ nhìn thấy bức ảnh một người lính Nhật đang chặt đầu một thường dân Nam Kinh.
Những tác phẩm đặc sắc khác của Hayder là Người chim (Birdman), Sự điều trị (The Treatment), Đảo Lợn (Pig Island) và Nghi lễ (Ritual).
Mở đầu
史 Thành phố Nam Kinh, Trung Quốc, ngày 21 tháng Mười hai năm 1937
Với những người đang nổi giận và đấu tranh chống lại sự mê tín, tôi chỉ muốn hỏi tại sao? Tại sao lại coi thường những tín ngưỡng dân gian đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác chỉ vì thói ngông cuồng và tự mãn cá nhân? Tại sao lại không tin khi một người nông dân nói rằng ngày xưa, chính các vị thần linh trong lúc nổi giận đã phá hủy những ngọn núi lớn ở Trung Quốc, và đất nước này đã từ trên trời rơi xuống khi bầu trời bị rách toạc từ mấy nghìn năm về trước? Liệu bạn có thông thái hơn ông ta? Liệu bạn có thông thái hơn tất cả các thế hệ nông dân gộp lại?
Tôi tin ông ta. Cuối cùng thì tôi cũng đã tin. Mặc dù tay tôi vẫn run lên khi viết những dòng này nhưng tôi tin vào tất cả những điều được dệt nên từ mê tín. Và tại sao? Bởi vì tôi không thể tìm được bất cứ lý do nào khác để giải thích về sự thay đổi bất thường của thế giới, không thể tìm được bất cứ công cụ nào khác để lý giải về cái tai họa này. Tôi phải tìm kiếm sự an ủi từ các tín ngưỡng dân gian và tôi tin người nông dân khi ông ta nói rằng chính cơn thịnh nộ của các vị thần đã khiến cho địa hình nơi đây dốc xuống phía Tây. Đúng vậy, tôi tin ông ta khi ông ta nói rằng tất cả mọi vật, đất đai, sông ngòi cho đến các thành phố cuối cùng sẽ trôi ra biển. Kể cả Nam Kinh. Một ngày nào đó thì chính Nam Kinh cũng sẽ trôi ra biển. Nhưng có lẽ đó sẽ là hành trình chậm chạp nhất vì Nam Kinh đã không còn giống như những thành phố khác. Chỉ vài ngày vừa qua thành phố này đã thay đổi tới mức khó nhận biết và nếu phải di chuyển, nó sẽ di chuyển một cách chậm chạp vì nó đã bị trói chặt vào đất bởi thi thể những công dân không được chôn cất và những oan hồn sẽ đi theo nó tới bất cứ đâu.
Có lẽ tôi nên cho rằng đó là một đặc ân khi được tận mắt nhìn thấy Nam Kinh trong giờ phút lịch sử này. Từ khung cửa sổ nhỏ xíu của mình, xuyên qua tấm lưới mắt cáo, tôi có thể nhìn thấy những gì mà quân Nhật đã bỏ lại Nam Kinh: đường phố hoang vắng với những tòa nhà cháy đen, những dòng sông và kênh đào ngồn ngộn xác chết. Tôi nhìn xuống hai bàn tay run rẩy của mình và tự hỏi tại sao mình vẫn còn sống. Giờ đây máu đã khô. Nếu tôi xoa hai bàn tay vào nhau thì chúng sẽ rơi xuống lả tả, những vảy máu đen rơi trên mặt giấy, sẫm hơn cả những con chữ mà tôi viết bằng thứ mực đã loãng: nghiên mực của tôi đã cạn nhưng tôi không còn đủ sức cũng như can đảm ra ngoài để pha thêm.
Nếu tôi đặt bút xuống, đứng nép một bên vào bức tường lạnh ngắt trong một tư thế gò bó, mũi tì lên tấm cửa chớp, tôi có thể thấy núi Tử Kim phủ đầy tuyết vươn lên sau những mái nhà cháy nham nhở. Nhưng tôi sẽ không làm thế. Không việc gì phải ép mình vào cái tư thế gò bó ấy, vì tôi sẽ không bao giờ nhìn về ngọn núi Tử Kim đó nữa. Khi viết xong quyển nhật ký này tôi cũng sẽ quên đi cái cảnh tuyệt vọng bám đuổi người lính Nhật đó trên các sườn núi. Rách rưới, tiều tụy, tôi đi theo anh ta như một con sói săn mồi, xuyên qua những con suối đóng băng và những mỏm núi phủ đầy tuyết…
Gần hai tiếng đồng hồ. Tôi đã bám theo anh ta gần hai tiếng đồng hồ. Hai chúng tôi đang ở trong một khu rừng nhỏ gần cổng lăng. Anh ta đứng cạnh một gốc cây, quay lưng về phía tôi, tuyết đọng trên tán cây đang tan ra, nhỏ xuống hai vai. Anh ta đang cúi đầu thăm dò khu rừng trước mặt, có lẽ vì sợ những dốc núi nguy hiểm. Chiếc máy quay phim đung đưa bên sườn.
Tôi đã đi theo anh ta lâu tới mức cả người bầm giập, trầy xước, chân tay rã rời, lồng ngực đau buốt vì lạnh. Tôi từ từ tiến lại gần anh ta. Cho đến giờ tôi vẫn không hiểu nổi tại sao lúc đó tôi có thể giữ được tự chủ mặc dù cả người đang run bắn lên. Anh ta xoay người và ngồi thụp xuống theo bản năng khi nghe thấy tiếng động. Nhưng khi nhìn thấy tôi, người không ra người, ma không ra ma, lại thấp hơn anh ta một cái đầu thì anh ta đã phần nào lấy lại bình tĩnh. Anh ta đứng thẳng lên và nhìn tôi tiến lại gần cho tới khi hai chúng tôi chỉ còn cách nhau vài bước chân và anh ta có thể nhìn thấy khuôn mặt đầm đìa nước mắt của tôi.
“Có lẽ điều này đối với anh không quan trọng,” anh ta nói với tôi, trong giọng nói có cái gì đó như thương hại. “Nhưng tôi muốn anh biết là tôi rất tiếc vì những gì đã xảy ra. Tôi thật sự rất lấy làm tiếc. Anh có hiểu tiếng Nhật không?”
“Có, tôi hiểu.”
Anh ta thở dài, đưa bàn tay đeo găng da lợn nứt nẻ lên lau trán. “Tôi không muốn chuyện đó xảy ra. Không bao giờ. Tin tôi đi!” Anh ta giơ tay lên như chỉ về hướng chùa Linh Cốc. “Đúng là ông ta rất thích làm chuyện đó. Ông ta là thế. Nhưng tôi thì không. Tôi quan sát họ. Tôi quay phim những gì họ làm nhưng tôi không hề muốn làm chuyện đó. Hãy tin rằng tôi không hề muốn.”
Tôi lấy tay áo lau mặt, chùi đi những giọt nước mắt rồi tiến về phía anh ta. Tôi đặt bàn tay run rẩy lên vai anh ta. Anh ta vẫn đứng im không hề nao núng, quan sát khuôn mặt tôi với vẻ ngạc nhiên. Anh ta không có vẻ gì là sợ hãi, anh ta cho rằng tôi chỉ là một thường dân yếu ớt và không mảy may nghi ngờ về con dao gọt hoa quả mà tôi đang giấu trong tay.
“Hãy đưa cho tôi chiếc máy quay phim,” tôi nói.
“Tôi không thể – đừng cho rằng tôi quay những thước phim này cho những người lính đó, để giúp họ tiêu khiển. Tôi có những dự định cao cả hơn nhiều.”
“Hãy đưa cho tôi chiếc máy quay phim.”
Anh ta lắc đầu. “Tuyệt đối không được.”
Khi anh ta nói những lời này, vạn vật xung quay chúng tôi dường như chuyển động chậm lại. Đâu đó, xa xa trên những sườn núi, quân Nhật đang nã pháo xua đuổi những đơn vị Quốc dân Đảng bỏ trốn ra khỏi rặng núi, dồn họ lại thành một nhóm giải về thành phố; nhưng ở trên đỉnh núi này, tôi gần như không nghe thấy bất cứ âm thanh nào ngoài nhịp đập của hai trái tim trong lồng ngực và tiếng băng tan trên những cành cây.
“Tôi nói đưa cho tôi chiếc máy quay phim.”
“Tôi đã bảo là không. Tuyệt đối không được.”